Đại phước duyên

ĐẠI PHƯỚC DUYÊN

Thứ năm, ngày 22 tháng 8 năm 2019, là ngày Đại Phước Duyên với vinh dự được bày tỏ lòng tôn kính cá nhân đối với Ngài Wizawtayon Sayadaw Bhaddanta Vijjota: Quốc Sư Dòng Tu Shwegyin – Sư Trưởng Đại Giáo chủ – Tướng quân chánh pháp – Tăng Vương Shwegyin thứ 15 – Đạo sư Đỉnh Cờ Đại Thừa – Bậc Đại trí giả tột bậc.

Thursday 22 August 2019, a great blessing day – I had the honor of paying the homage individually to State Ovadacariya Shwegyin Nikaya Adhipati Chairman – Maha Nayaka Dhammasenapati – 15th Shwegyin Sangharaja – Abhidhaja Maha Rattha Guru – Agga Maha Pandita – Wizawtayon Sayadaw Bhaddanta Vijjota.

Sādhu Sādhu Sādhu!
Lành thay Lành thay Lành thay!

Bài viết liên quan: Hội Nghị Lần Thứ 20 Hệ Phái Shwegyin, Miến, WebFB

CHÚ THÍCH

Shwegyin Nikaya (cũng được đánh vần là Shwekyin Nikaya) là tên của hệ phái lớn thứ hai của các nhà sư ở Miến Điện. Khoảng 5% (năm mươi nghìn) các nhà sư Miến Điện thuộc về hệ phái này. Đây là một trong chín hệ phái (nikāya) trong nước, theo Luật 1990 về Các tổ chức Tăng già.

Shwegyin Nikaya được thành lập vào giữa thế kỷ XIX bởi một nhà sư trụ trì của ngôi chùa ở làng Shwegyin. Nó chính thức tách khỏi Thudhamma Nikaya dưới thời trị vì của vua Mindon Min, và cố gắng hòa hợp hai phe của vị vua cuối cùng của Miến Điện, Thibaw Min, đã không thành công. Các nhà sư của Shwegyin Nikaya đã không tham gia vào phong trào dân tộc và chống thực dân Anh ở Miến Điện vào đầu những năm 1900. Không giống như Thuddama Nikaya, Shwegyin từ chối tham gia vào chính trị quốc gia vì lý do chính trị là thế sự của người dân chứ không phải của các nhà sư. Điều này góp phần vào sự độc lập ngày càng tăng của Shwegyin.

Mặc dù có số lượng nhỏ, Shwegyin nổi tiếng với các nhà sư có kinh nghiệm sâu rộng về văn học tôn giáo. Hơn nữa, họ nổi tiếng về việc tuân giữ nghiêm ngặt Giới Luật và tu tập nghiêm mật Định, Tuệ.

Shwegyin Nikaya là một hệ phái chính thống hơn, chặt chẽ hơn Thudhamma Nikaya, liên quan đến tuân thủ nghiêm ngặt Giới Luật, và sự lãnh đạo của nó là tập trung và có thứ bậc. Shwegyin không cho phép các thành viên của mình hút thuốc, nhai trầu, ăn sau bữa ăn trưa, không tham gia các hình thức giải trí phổ biến, không cầm và giữ tiền bạc … . Các hình thức truyền thống của niềm tin Phật giáo, như niềm tin vào thiên giới, chư thiên và địa ngục, tiếp tục là một phần của thế giới quan của họ.

Ngày nay các phương pháp Thực hành Thiền Quán Vipassana và Thiền Chỉ Samatha có hiệu quả và thành công được dạy rộng rãi không chỉ ở Myanmar mà ở nhiều trung tâm trên thế giới bởi các bậc thầy Shwegyin như Mahasi Sayadaw, Paauk Sayadaw …

Người đứng đầu của Shwegyin Nikaya được gọi là Sangha Sammuti, có thẩm quyền về học thuyết và thực hành tôn giáo được coi là tuyệt đối.

Nhiều Trưởng Lão Đại sư Shwegyin được chính phủ Myanmar trao tặng Danh hiệu cao quí tột bậc – “Bậc Tối Thắng Đại Trí Giả – Agga Maha Pandita” và được kính trọng bậc nhất trong nước như:

Ledi Sayadaw (1911)
Ashin Janakabhivamsa (1948)
Mahasi Sayadaw (1952)
Ambalangoda Polwatte Buddhadatta Thera (1954)
Balangoda Ananda Maitreya Thero (1955)
Sayadaw U Thittila (1956)
Anisakhan Sayadaw U Pandita
Mogok Sayadaw U Vimala (1962)
Mingun Sayadaw U Vicittasarabhivamsa (1979)
Myaungmya Sayadaw U Nyanika (1991)
Birmingham Sayadaw U Rewatadhamma
Sitagu Sayadaw Ashin Nyanissara
Sayadaw U Silananda (1993)

NOTE

Shwegyin Nikaya (also spelt Shwekyin Nikaya) is the name of the second largest monastic order of monks in Burma. Approximately five percent (fifty thousand) of Burma’s monks belong to this order. It is one of nine legally sanctioned monastic orders (nikāya) in the country, under the 1990 Law Concerning Sangha Organizations.

Shwegyin Nikaya was founded in the mid-nineteenth century by a chief abbot monk in the village of Shwegyin. It formally separated from the Thudhamma Nikaya during the reign of King Mindon Min, and attempts to reconcile the two sects by the last king of Burma, Thibaw Min, were unsuccessful. Monks of the Shwegyin Nikaya did not participate in the nationalist and anti-colonial movement in British Burma of the early 1900s. Unlike the larger Thuddama Nikaya, the Shwegyin refused to become involved in national politics on the grounds that politics was the preserve of the laity and not monks. This contributed to the growing independence of the Shwegyin.

Despite having a small number of monks, Shwegyin is famous for monks who are well-versed in religious literature. Moreover, they have a strong reputation of strictly obeying the Vinaya, and of ardently developing Samadhi (concentration) and Panna (wisdom).

Shwegyin Nikaya is a more orthodox order, stricter than Thudhamma Nikaya, with respect to adherence to the Vinaya, and its leadership is more centralized and hierarchical. Shwegyin does not allow its members to smoke, to chew betel nut, to consume foods after the midday meal, to attend popular forms of entertainment, to take or keep money.… Traditional forms of Buddhist belief, such as belief in heavens, gods and hells, continue to be part of their cosmology.

Effectively and successfully practicing meditation methods are widely teached not only in Myanmar but in many centres in the world by Shwegyin masters Mahasi Sayadaw, Paauk Sayadaw U Acina …

The head of the Shwegyin Nikaya is called the Sangha Sammuti , whose authority on doctrine and religious practice is considered absolute .

Many Shwegyin Sayadawgyis are the most respected Sayadawgyis in country as Agga Maha Pandita (The Foremost Great Wise One) Sayadaws:

Ledi Sayadaw (1911) Ashin Janakabhivamsa (1948)
Mahasi Sayadaw (1952)
Ambalangoda Polwatte Buddhadatta Thera (1954)
Balangoda Ananda Maitreya Thero (1955)
Sayadaw U Thittila (1956)
Anisakhan Sayadaw U Pandita
Mogok Sayadaw U Vimala (1962)
Mingun Sayadaw U Vicittasarabhivamsa (1979)
Myaungmya Sayadaw U Nyanika (1991)
Birmingham Sayadaw U Rewatadhamma
Sitagu Sayadaw Ashin Nyanissara
Sayadaw U Silananda (1993)