Tứ Thánh Đế – Bài 1/4

DUKKHA LÀ GÌ? Phải Chăng “Đời Là Bể Khổ?”

(Tứ Thánh Đế – Bài 1/4)

Trọng tâm của giáo lý đức Phật nằm trong Tứ diệu đế (Cattàri Ariyasaccani) mà Ngài tuyên dương ngay trong bài thuyết pháp đầu tiên của Ngài cho những người bạn cũ, 5 nhà khổ hạnh ở vườn Lộc uyển (Isipatana–Sarnath ngày nay) gần Benarès (Ba–la–nại). Trong bài thuyết pháp ấy như chúng ta thấy trong nguyên bản, Tứ diệu đế (bốn chân lý cao cả) được nói một cách vắn tắt. Nhưng có vô số những chỗ khác trong các kinh điển nguyên thủy trong ấy Tứ diệu đế được giảng đi giảng lại với nhiều chi tiết hơn, và bằng nhiều cách khác nhau. Nếu nghiên cứu Tứ Diệu Ðế này qua những tài liệu và giải thích ấy, ta sẽ có được một tường thuật khá đúng đắn và chính xác về những giáo lý tinh yếu của đức Phật theo những bản kinh Nguyên thủy.

Bốn chân lý cao cả ấy là:

❶ Khổ (Dukkha).

❷ Tập (Samudaya), sự phát sinh hay nguồn gốc của khổ.

❸ Diệt (Nirodha), sự chấm dứt khổ.

❹ Ðạo (Magga), con đường đưa đến sự chấm dứt khổ.

DUKKHA

Diệu đế thứ nhất (Dukkha–ariyasacca) thường được hầu hết các học giả dịch là “Chân lý cao cả về sự khổ”. Chính lối phiên dịch dễ dãi hẹp hòi và cách giải thích nông cạn về “khổ” đã khiến nhiều người lầm xem Phật giáo là yếm thế bi quan.

Trước hết, Phật giáo không bi quan cũng không lạc quan mà hiện thực, vì có lối nhìn hiện thực về nhân sinh và vũ trụ. Phật giáo nhìn sự vật một cách như thật (yathàbhùtam).

Phật giáo không tìm cách ru người vào ảo tưởng về một thiên đường lừa bịp, cũng không làm người ta chết khiếp vì đủ thứ tội lỗi và sợ hãi tưởng tượng.

Nó cho ta biết một cách khách quan ta là gì, thế giới quanh ta là gì, và chỉ con đường đưa đến tự do hoàn toàn, thanh bình, an ổn và hạnh phúc.

Một y sĩ có thể phóng đại về một chứng bệnh khiến người ta tuyệt vọng. Một y sĩ khác vì không biết gì, có thể tuyên bố không sao cả, không cần chữa – lừa dối con bệnh bằng một sự an ủi giả dối. Người ta có thể gọi người đầu bi quan và người sau lạc quan; cả hai đều nguy hiểm. Nhưng một y sĩ thứ ba định bệnh một cách chính xác, hiểu rõ nguyên nhân và bản chất bệnh, thấy rõ có thể chữa, nên can đảm bắt tay vào việc chữa trị, nhờ thế cứu được bệnh nhân.

Ðức Phật giống như vị lương y sau cùng này. Ngài là vị lương y có trí tuệ và khoa học để trị những căn bệnh của thế gian (bhisakka hay Bhaisajyagury).

Ðã đành Phạn ngữ dukkha trong cách dùng thông thường có nghĩa là “đau khổ”, “đau đớn”, “buồn” hay “sự cơ cực”, tương phản với chữ “sukkha” có nghĩa “hạnh phúc”, “tiện nghi”, hay “thoải mái”.

Nhưng danh từ dukkha trong Diệu đế thứ nhất, trình bày quan điểm của đức Phật về nhân sinh và vũ trụ, có một ý nghĩa triết lý sâu sắc hơn và hàm chứa những nội dung rộng lớn hơn nhiều.

Dĩ nhiên ai cũng công nhận danh từ Dukkha trong diệu đế thứ nhất rõ ràng có chứa đựng ý nghĩa thông thường của “khổ”, nhưng ngoài ra nó còn bao hàm những ý nghĩa sâu sắc hơn như “bất toàn”, “vô thường”, “trống rỗng”, “giả tạm”.

Bởi thế, thật khó tìm một chữ có thể bao quát toàn nội dung danh từ Dukkha kể như Khổ đế, và vì thế tốt hơn nên để vậy đừng phiên dịch, hơn là gây một ý tưởng sai lầm không xác đáng về nó bằng cách dịch dễ dãi tiện lợi thành ra “khổ” hay “đau khổ”.

Ðức Phật không phủ nhận có hạnh phúc (tạm thời) trong sự sống khi Ngài bảo sống là khổ đau. Trái lại Ngài chấp nhận có những hình thái khác nhau về hạnh phúc (tạm thời), cả vật chất cũng như tinh thần, cho người thế tục cũng như cho người xuất thế.

Trong kinh Tăng chi bộ (Anguttara–nikàya) một trong năm tạng kinh nguyên thủy bằng tiếng Pali, chứa đựng những bài thuyết pháp của đức Phật, có những bảng kê những hạnh phúc (sukkàni), như hạnh phúc của cuộc đời ẩn sĩ và hạnh phúc của cuộc sống gia đình, hạnh phúc của khoái lạc giác quan và hạnh phúc của sự từ bỏ thế tục, hạnh phúc của sự ràng buộc và hạnh phúc của sự giải thoát, hạnh phúc vật lý và hạnh phúc tâm linh v.v..

NHƯNG TẤT CẢ NHỮNG ĐIỀU NÀY ĐỀU BAO GỒM TRONG DUKKHA.

Cả đến những cảnh giới tâm linh rất thuần khiết của thiền (dhyàna, tĩnh lự), đạt được nhờ thực hành Thiền quán, hoàn toàn thoát khỏi cả đến bóng dáng của khổ đau theo nghĩa thông thường, những cảnh giới có thể gọi là hạnh phúc thuần túy cũng như cảnh giới Thiền đã vượt khỏi những cảm giác vừa lạc (sukkha) vừa khổ (dukkha) chỉ còn là Thức thuần tịnh – cả đến những cảnh giới tâm linh rất cao siêu đó, cũng được bao hàm trong dukkha. Trong một kinh Trung bộ Majjhima–nikàya (một trong năm bộ kinh nguyên thủy), sau khi ca tụng hạnh phúc tâm linh của những cảnh thiền ấy, đức Phật dạy:

“Chúng đều là vô thường, khổ (dukkha), phải chịu đổi thay” (aniccà dukkhà viparimàmadhammà).

Hãy để ý chữ dukkha đã được dùng đầy ý nghĩa. Nó là dukkha không phải vì có “đau khổ” trong nghĩa thông thường của danh từ, mà vì “CÁI GÌ VÔ THƯỜNG LÀ DUKKHA” (YAD ANICCAMTAM DUKKHAM)

……

Quan niệm về dukkha có thể nhìn từ ba phương diện:

❶ dukkha trong nghĩa khổ thông thường, gọi là khổ khổ (dukkha– dukkha);

❷ dukkha phát sinh do vô thường, chuyển biến, hoại khổ (viparinàma– dukkha).

❸ dukkha vì những hoàn cảnh giới hạn của sinh tử, hành khổ (samkhàra– dukkha).

❶ Mọi thứ đau khổ trong đời như sinh, lão, bệnh, tử, phải gặp những người và hoàn cảnh trái ý (oán tăng hội), phải xa lìa những người và hoàn cảnh mến yêu (ái biệt ly), không được những gì mình ưa muốn (cầu bất đắc), buồn thương, đau khổ, tất cả những hình thức khổ thể xác và tinh thần ấy (ngũ ấm xí thạnh), những điều mà ai cũng nhận là đớn đau, khổ sở, đều được bao gồm trong dukkha theo nghĩa khổ thông thường, khổ–khổ (dukkha– dukkha).

❷ Một cảm giác hoan lạc, một hoàn cảnh hạnh phúc trong đời không bao giờ trường cửu bất diệt. Sớm hay muộn nó cũng thay đổi. Khi biến đổi, nó phát sinh khổ đau bất hạnh. Sự thăng trầm này được bao hàm trong dukkha theo nghĩa những khổ đau phát sinh do sự chuyển biến vô thường, gọi là hoại khổ (viparinàma– dukkha).

Hai hình thức khổ (dukkha) trên đây thật dễ hiểu, không ai chối cãi. Khía cạnh này của Diệu đế thứ nhất thường được người ta biết đến nhiều hơn vì nó dễ hiểu; đấy là kinh nghiệm thường ngày.

❸ Nhưng hình thức thứ ba của dukkha là hành khổ (samkhàra – dukkha), mới chính là khía cạnh triết lý quan trọng nhất trong chân lý đầu tiên. Muốn hiểu nó, ta cần giải thích, phân tích cái mà ta gọi là một “thực thể”, một “cá nhân”, hay “cái tôi”.

Cái mà ta gọi “bản ngã”, “cá thể”, hay “tôi” theo triết lý Phật giáo, chỉ là một sự phối hợp những năng lực tâm vật lý hằng biến, có thể chia thành 5 nhóm hay uẩn (pancakkhandha).

Ðức Phật dạy:

“TÓM LẠI, NĂM UẨN TRÓI BUỘC LÀ DUKKHA”.

Ở một chỗ khác, Ngài định nghĩa rõ rằng:

“DUKKHA LÀ GÌ, PHẢI NÓI RẰNG ĐẤY LÀ NGŨ UẨN”.

Ðây ta cần hiểu rõ rằng dukkha và năm uẩn không phải là hai, năm uẩn chính là dukkha.

………

Ðiều tối quan trọng là phải hiểu chân lý thứ nhất này một cách rõ ràng bởi vì, như đức Phật dạy:

“NGƯỜI NÀO THẤY RÕ ĐƯỢC DUKKHA CŨNG THẤY LUÔN NGUYÊN NHÂN CỦA DUKKHA, CŨNG THẤY LUÔN SỰ DIỆT DUKKHA VÀ CŨNG THẤY LUÔN CON ĐƯỜNG ĐƯA ĐẾN SỰ DIỆT DUKKHA”.

Ðiều này tuyệt nhiên không làm cho đời của một Phật tử buồn sầu ảm đạm như vài người lầm tưởng.

Trái lại phật tử chân chính là người hạnh phúc nhất trần gian. Người ấy không sợ hãi lo lắng. Họ luôn luôn bình an thanh thoát, không thể bị tai nạn hay biến chuyển nào làm cho điêu đứng đảo điên, vì họ thấy mọi sự đúng như thật.

Phật không bao giờ buồn sầu u ám. Ngài thường được những người đồng thời mô tả là “luôn luôn mỉm cười” (mihita–pubbamgama).

Trong hội họa và điêu khắc Phật giáo, đức Phật luôn luôn được trình bày với một sắc diện hạnh phúc, bình an, hài lòng và từ bi.

Không bao giờ người ta thấy một nét đau khổ điêu đứng hay cực lòng. Mỹ nghệ và kiến trúc Phật giáo, những ngôi chùa thờ Phật không bao giờ cho người ta cảm tưởng u ám buồn sầu, mà thường có không khí bình an và thanh thoát.

Mặc dù sự sống có khổ đau, một Phật tử không nên vì vậy mà sầu khổ, mà oán hận hay thiếu kiên nhẫn.

Theo Phật giáo, một trong những điều xấu xa nhất ở đời là nghịch ứng hay thù ghét. Nghịch ứng (patigha) được giải là “sự thù ghét đối với chúng sinh, đối với đau khổ và đối với những gì thuộc về khổ đau. Công việc của nó là làm căn bản cho những hoàn cảnh bất hạnh và ác nghiệp”.

Vậy thiếu kiên nhẫn trước khổ đau là một điều sai lầm. Sự thiếu kiên nhẫn hay oán hận trước khổ đau không làm cho đau khổ ấy tiêu tan. Trái lại, thái độ ấy chỉ tổ tăng thêm rối ren và làm trầm trọng thêm một hoàn cảnh vốn đã khó chịu.

Ðiều cần thiết không phải là oán hận hay thiếu kiên nhẫn, mà phải hiểu rõ vấn đề khổ đau, xem nó đã phát sinh thế nào, làm sao xua đuổi nó, rồi tùy theo đấy mà hành động với kiên nhẫn, thông minh, quả cảm và nghị lực.

Có hai bản kinh xưa cũ gọi là Trưởng lão kệ (Theragàthà) và Trưởng lão ni kệ (Therigàthà) chứa đầy những lời hoan hỉ của các Tăng Ni đệ tử Phật, những người đã tìm thấy an vui hạnh phúc trong đời nhờ giáo lý của Ngài.

Vua xứ Kosala một hôm bạch Phật: “Khác với nhiều đồ đệ của các hệ thống tôn giáo khác thường trông hốc hác, thô kệch, xanh xao, tiều tụy ít ưa nhìn, những đệ tử Phật luôn luôn vui vẻ, thanh thoát, hồn nhiên, sung sướng, vui hưởng lạc thú đời sống tâm linh, không lo âu, bình an, thư thái.”

Vua thêm rằng ông tin tính chất lành mạnh đó là do ở chỗ “những vị thượng tọa này chắc chắn đã nhận chân toàn vẹn ý nghĩa giáo lý của đức Thế Tôn”.

Phật giáo hoàn toàn đối lập với thái độ buồn sầu, phiền muộn, u ám, xem đấy là một trở ngại cho sự thực hiện chân lý.

Trái lại, ta nên nhắc lại ở đây rằng sự vui sướng, “hỉ” (pìti), là một trong bảy yếu tố để đạt giác ngộ hay “thất giác chi” (Bojjhamgas), những đức tính cốt yếu phải được đào luyện để thực hiện Niết–bàn.

Nguồn trích dẫn: “Ðức Phật Ðã Dạy Những Gì?”- Walpola Rahula

Bài viết liên quan

  1. Khổ – Dukkha, WebFB
  2. Ngu Thì Khổ, WebFB
  3. Cuộc Đời Là Đau Khổ Hay Không Đau Khổ? Có Lối Thoát Hay Không Có Lối Thoát?, WebFB
  4. Học Gì Hết Ngu, Tu Gì Hết Khổ, WebFB
  5. Bát Thánh Đạo, WebFB
  6. Bát Chánh Đạo Là Con Đường Tối Thượng:, WebFB
  7. Dukkha Là Gì? Phải Chăng “Đời Là Bể Khổ?”(Tứ Thánh Đế – Bài 1/4), WebFB
  8. Dukkha Samudaya: Chân Lý Về Nguyên Nhân Của Khổ Là Gì? (Tứ Thánh Đế – Bài 2/4), WebFB
  9. Dukkha Nirodha – Khổ Đoạn Diệt: Chân Lý Về Sự Chấm Dứt Khổ – Niết Bàn Là Gì? (Tứ Thánh Đế – Bài 3/4), WebFB
  10. Magga – Con Đường: Chân Lý Thứ Tư – Đạo Đế: Con Đường Chấm Dứt Khổ Là Gì?(Tứ Thánh Đế – Bài 4/4), WebFB
  11. 4 Thánh Đế, 4 Bậc Thánh, 4 Đạo & 4 Quả, 4 Bậc Alahán, WebFB
  12. Tất Cả Pháp Lấy Gì Làm Căn Bản?, WebFB
  13. Kāma – Dục (Tham Ái) Và Chanda – Dục (Mong Muốn) Khác Nhau Như Thế Nào?, WebFB
  14. Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức, WebFB
  15. Người Hiền Trí – Bài 1/4: Kẻ Ngu & Người Hiền Trí Khác Nhau Thế Nào?, WebFB
  16. Người Hiền Trí – Bài 2/4: Giới (Dhatù – Elements) Là Gì? Xứ (Àyatana – Spheres) Là Gì?, WebFB
  17. Người Hiền Trí – Bài 3/4: Duyên Khởi Là Gì? (Paṭic­Ca­Samup­Pāda­ – Depending Arising), WebFB
  18. Người Hiền Trí – Bài 4/4: Xứ Phi Xứ (Có Thể & Không Thể) Là Gì? (Ṭhānāṭhā­Na­ – Possible And Impossible), WebFB
  19. Người Hiền Trí – Bài 3/4: Duyên Khởi Là Gì? (Paṭic­Ca­Samup­Pāda­ – Depending Arising), WebFB
  20. “Lý Duyên Sinh” Theo “Thanh Tịnh Đạo” – P4: Vô Minh Duyên Hành, WebFB
  21. Lý Duyên Sinh – Bánh Xe Sinh Tử, WebFB
  22. Playlist Loạt Bài Giảng: “Lý Duyên Sinh” Theo “Thanh Tịnh Đạo”, Youtube
  23. Kiên Nhẫn Và Nghị Lực Để Đương Đầu Với Đau Khổ, Đặc Biệt Là Cảm Giác Đau Nhức Trong Khi Hành Thiền, WebFB
  24. Thế Nào Là Tám Pháp Đối Trị Dã Dượi Buồn Ngủ (Hôn Trầm Thụy Miên) Trong Khi Hành Thiền?, WebFB
  25. Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Ba: Tinh Tấn (Phần 2: 11 Cách Ðể Phát Sanh Tinh Tấn), WebFB
  26. Khi Thiền, Nếu Chúng Ta Cứ Duy Trì Việc Quan Sát Cái Đau, Sự Nóng Bức Hay Tê Cứng Mà Không Chịu Thay Đổi Oai Nghi Liền, Thì Thực Sự Đó Có Phải Là Tự Ép Xác Hay Khổ Hạnh (Atta-Kilamatha-Nuyoga) Không?, WebFB
  27. Đối Trị Đau Nhức Và Buồn Ngủ, Archive
  28. Danh Mục Các Bài Viết Quan Trọng, WebFB
  29. Tôi Nguyện, WebFB
  30. Tại Sao Myanmar, WebFB
  31. Mục Đích Sử Dụng Facebook Là Gì?, WebFB
  32. Sàng Lọc Thông Tin Như Thế Nào, WebFB
  33. Thế Nào Là Tu Đúng Đạo Phật, WebFB

Audio – Video Bài Giảng – Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala – Thiền Viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar.

  1. Yếu Pháp Tu Tập Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, WebYoutube
  2. Thiền Minh Sát Vipassana Lý Thuyết Và Thực Hành, WebYoutube
  3. Ehipassiko – Đến Để Thấy: Phóng Sự Về Khóa Tu Thiền Minh Sát Vipassana Tại Chùa Nam Tông Sg, Youtube
  4. Xin Hãy Đừng Phí Phạm Dù Chỉ Mỗi Một Giây – Thiền Sư Sumangala Bhikkhu Viên Phúc, Youtube
  5. Giới Và Luật Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, WebFB

Bài viết trên Facebook, 17 Tháng 5, 2017