Mười Pháp Mà Bậc Xuất Gia Phải Quán Tưởng Thường Xuyên
1) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường rằng: Bây giờ ta đã có tướng mạo khác hơn kẻ thế, nghĩa vụ nào của Sa–môn ta phải làm cho tròn.
2) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: Sự nuôi sanh mạng của ta nương nơi kẻ khác, ta cần phải làm cho người cấp dưỡng dễ dàng.
3) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: sự làm cho thân khẩu thêm chơn chánh, vẫn còn nữa chẳng phải chỉ có bấy nhiêu.
4) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: tâm ta không tự chê bai ta vì Giới không đầy đủ chăng?
5) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: hàng trí tuệ đã xem xét rồi, họ không khiển trách ta vì Giới không đầy đủ chăng?
6) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: ta phải chia lìa sự vật mà ta thương yêu vừa lòng, không sao tránh khỏi được.
7) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: ta có cái nghiệp của ta, ta làm lành thì được vui, gây dữ thì chịu khổ.
8) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: ngày và đêm hằng qua mau lẹ, bây giờ đây ta làm được cái chi chăng?
9) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: ta có ưa thích trong nơi thanh vắng chăng?
10) Bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường rằng: ta có các đức cao quí chăng? Khi có bậc phạm hạnh để hỏi ta trong giờ cuối cùng, ta sẽ không hổ thẹn chăng?
Mười pháp mà các bậc xuất gia nên quán tưởng thường thường đó gọi là Thập pháp (dasadhamma), song dịch như trên đó, mới thật đúng lý. Người tu học cần phải hiểu rằng Thập pháp là pháp dành cho hàng xuất gia, tuy nhiên như đã có giải, điều nào thuộc về hàng xuất gia, điều ấy người cư sĩ hành theo cũng được.
Trong 10 pháp đó nên hiểu như vầy:
1– Dạy phải quán tưởng về tướng mạo.
2– Dạy phải quán tưởng về chánh mạng.
3– Dạy phải quán tưởng về hành động.
4 & 5 – Dạy phải quán tưởng về qui tắc.
6 & 7 – Dạy phải quán tưởng về luật tự nhiên
8– Dạy phải quán tưởng về thời gian.
9– Dạy phải quán tưởng về chỗ ngụ.
10– Dạy phải quán tưởng về đức hạnh cao quí.
Về phước báu trong quán tưởng có chia ra làm 2 là: Phần riêng và chung.
Giải về phần riêng của mỗi phần trước.
1) Giải về phương tiện phát sanh sự hổ thẹn (hiri) và ghê sợ (ottappa) tội lỗi, để thực hành cho vừa với bổn phận của người xuất gia, nghĩa là điều nào không đúng quy tắc của bậc xuất gia thì phải chừa bỏ, nhất là phải hành những pháp chơn chánh, như là trì Giới, cho thân khẩu trong sạch, tu Định cho tâm yên lặng, hành Tuệ cho thấy rõ chánh tà. Phải cần kíp làm cho tròn nghĩa vụ.
2) Khi đã quán tưởng như vậy thì sẽ được 2 điều lợi ích:
– được làm tròn phận sự đối với người cấp dưỡng.
– sẽ có sự hành động cho họ dễ nuôi, nghĩa là làm cho mình thành người biết đủ (sandona), thọ 4 vật dụng tùy có tùy được. Họ cho vật chi thì vừa lòng với vật ấy không được chọn tốt, xấu, ngon, dỡ.
3) Bậc xuất gia chưa chứng đạo quả, là đức hạnh cuối cùng trong Phật giáo gọi là còn phận sự phải hành, nghĩa là phải tu tập cho thanh cao hơn nữa, cần phải học những điều chưa biết, thực hành những điều đã biết. Khi đã trì giới được trong sạch thì cần tu Thiền thêm lên, cho trí tuệ phát sanh để đắc đạo quả Niết Bàn là mục đích tối cao của Phật Giáo. Nếu bậc xuất gia được biết mình như vậy, thì hằng có sự lợi ích, để tự hóa trở thành nên bậc cao nhân. Nếu lầm tưởng rằng: Mình là đủ, không cần tu tập nữa, vừa lòng với bấy nhiêu thì không cần mẫn hành bậc cao mà mình chưa chưa đắc. Như thế, bậc xuất gia vẫn còn mắc trong vòng phàm tục và phải bị luật vô thường chi phối, sa vào 4 ác đạo chẳng sai. Nếu hành giả hằng quán tưởng biết mình như thế ắt sẽ tinh tấn tu hành thêm lên.
4 và 5) Bậc xuất gia quán tưởng hiểu rõ trong điều thứ tư và điều thư năm như vậy rồi, sẽ thấy mình chưa toàn thiện thì phát tâm cố gắng tu trì, không để, không để mình tự chê trách mình được. Nhưng lẽ thường phàm nhơn hiếm có người đọc biết chân chánh như thế.Vì vậy, có lúc làm sai mà họ cho là phải, có khi hành chánh mà họ cho là tà.
Cho nên có Phật ngôn rằng: “Tội mình khó biết, lỗi người dễ xem!” Nhân đó, đức Phật dạy phải luôn luôn quán tưởng những điều trên đây, cho phát sanh trí nhớ.
6) Đã thường quán tưởng điều này, thì sẽ rõ sự chia lìa do 2 lẽ là:
– Các sự vật mà ta thương yêu vừa lòng, nó sẽ lìa ta khi ta còn sanh tiền cũng có.
– Trong giờ mạng chung, ta phải bỏ nó cũng có, đó là lẽ tự nhiên không sao tránh được.
Khi thấy rõ 2 pháp trên rồi, mình được 3 điều lợi ích:
– Dứt tâm bất bình nóng giận, khi gặp sự vật đáng ghét bỏ
– Ngăn tâm không cho buồn rầu thương tiếc, lúc ly biệt sự vật thương yêu.
– Kiềm chế tâm ham muốn, sự vật của mình để tránh tà mạng gây ra các nghiệp ác.
Ðó là 3 điều lợi ích mà bậc xuất gia nhờ sự quán tưởng thường thường mới thấy rõ được.
7) Trong điều này nên hiểu câu “Ta có cái nghiệp của ta” rằng: Mọi người trong mỗi kiếp đều có tạo nghiệp, không dữ thì lành, chẳng tốt thì xấu, không có ai tránh khỏi, cho nên gọi là “Ta có cái nghiệp của ta”. Lại nữa, nếu làm lành thì được vui, làm dữ thì chịu khổ. Cớ ấy sự quán tưởng trong điều thứ 7 mới có lợi ích, không cho làm ác, chỉ tạo việc lành, vì hiểu rõ quả báo của nghiệp.
8) Đức Phật có khuyên các Tỳ–khưu cần phải biết thời gian qua rồi, chẳng khi nào trở lại. Nên hiểu rõ chơn chánh rằnh: Nó chỉ thoáng qua mau lẹ, nếu không thì hằng để cho ngày giờ trãi qua vô ích, sẽ có điều hối hận ăn năn. Có Phật ngôn rằng “Những người còn trai tráng, có tánh thông minh mà lười biếng không chuyên cần làm các công việc thì khó gặp được xuất thế bằng “Trí tuệ”.
Lời Phật dạy đây để tỉnh thức họ cho tinh tấn trong niên cấp còn khỏe mạnh, cho sự tu hành mau được tấn hoá trong 2 phương diện đời và đạo, sự quán tưởng thường thường trong điều này, hằng đem lại hạnh phúc yên vui cho mình chẳng sai.
9) khi đã quán tưởng thường thường thì có sự tĩnh tâm vừa lòng trong nơi thanh vắng, lìa xa bè đảng bàu bạn, ưa thích trong nơi yên lặng, để tham thiền cho tâm an trụ, rồi suy xét điều chi cũng được chân chánh rõ rệt, không có trở ngại và bậc tu thượng được dễ dàng.
10) giải rằng: – “Các đức tính cao quí chỉ về tâm thiền định hoặc giải thoát”. Nếu đã quán tưởng thường như thế thì được tĩnh tâm, không hề vừa lòng với các hạnh phúc nhỏ nhen bực hạ, tinh tấn trong đức tánh cao thượng theo thứ tự.
Về phước báu trong cách quán tưởng 10 điều đó, hằng đem lại sự yên tĩnh cho tâm, để tiến bộ trong chánh pháp, tu giới, định, tuệ cho càng tăng trưởng thanh cao. Nói tóm lại, sẽ được mãn nguyện trong 2 đường: đời và đạo xuất thế, chứng quả Niết bàn là mục đích cứu cánh của Phật giáo.
Nguồn trích dẫn: LUẬT XUẤT-GIA TÓM TẮT (PABBAJITA VINAYA SANKHEPA), TỲ-KHƯU HỘ-TÔNG, (VANSARAKKHITA BHIKKHU), PL. 2510 – TL. 1966, TÁI BẢN PL. 2537 – TL. 1993.
Bài viết liên quan
- Tại Sao Myanmar, Web, FB
- Đôi Lời Nhắn Nhủ Tới Những Vị Sắp Xuất Gia Theo Truyền Thống Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Web, FB
- Vì Sao Xuất Gia, Web, FB
- Đức Phật Đã Có Suy Nghĩ Gì Trước Khi Xuất Gia?, Web, FB
- Ai Là Bhikkhu – Tỳ Khưu, Web, FB
Lễ Xuất Gia Thọ Giới Tỳ Khưu
- Bài 1/4 – Thầy Tế Độ – Ācariyupajjhāya, Web, FB
- Bài 2/4 – Xét Hỏi Sa Di, Web, FB
- Bài 3/4 – Tuyên Ngôn & Thành Sự Ngôn, Web, FB
- Bài 4/4 – Bốn Pháp Nương Nhờ & Bốn Pháp Không Nên Hành, Web, FB
- Phân Biệt Tỳ Khưu Thật Và Không Thật Dựa Vào Đâu? Phân Hiệt Rõ Vai Trò, Chức Năng Của Giáo Hội Khác Với Tăng Đoàn Sangha Như Thế Nào?, Web, FB
- Xuất Gia Gieo Duyên, Web, FB
- Đạt Tới Cái Khó Đạt Tới, Web, FB
- Làm Những Điều Tốt Đẹp Nhất, Lợi Ích Nhất Khi Có Cơ Hội Làm Người, Khi Có Cơ Hội Gặp Chánh Pháp Như Lai Còn Tỏa Sáng Trên Thế Gian Là Gì?, Web, FB
- Mười Pháp Mà Bậc Xuất Gia Phải Quán Tưởng Thường Xuyên, Web, FB
- Như Thế Nào Là Tỳ Khưu Giới Hạnh Đầy Đủ?, Web, FB
- Thế Nào Là Bốn Điều Đáng Sợ Hãi Chờ Đợi Những Người Xuất Gia?, Web, FB
- Bổn Phận Cư Sĩ Tại Gia Là Gì? Bổn Phận Tu Sĩ Xuất Gia Là Gì?, Web, FB
- Tỳ Khưu Đảnh Lễ Những Ai?, Web, FB
- Phàm Tăng Và Thánh Tăng, Web, FB