Kính Mừng Đại Lễ Vap Poya Day
Xin được tùy hỷ cùng công đức phước báu của chư Tỳ khưu đã nỗ lực tinh tấn vun bồi Giới Định Tuệ trong thời gian kỳ an cư mùa mưa ba tháng qua.
Sādhu, Sādhu, Sādhu, anumodāmi!
Trong tâm từ,
Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala
Phap Bao Tu
🌿🌿🌿KÍNH MỪNG ĐẠI LỄ VAP POYA DAY
Mùa an cư của chư tôn đức Tăng nơi các ngôi tự viện Phật giáo Theravāda đã hoàn mãn vào ngày rằm tháng chín năm Quý Mão.
Ngày rằm tháng chín cũng được gọi là ngày Đại Lễ Vap Poya Day, theo tên gọi của một tháng ở xứ Phật Sri Lanka.
Đại Lễ Vap Poya Day có ba ý nghĩa đặc biệt như sau:
I. Đức Thế Tôn kết thúc thời thuyết giảng Luận Tạng (Abhidhamma Piṭaka) nơi cung trời Đạo Lợi (Tāvatiṃsa).
Bài Kinh Acchariya–Abbhūta Sutta, Trung Bộ Kinh bài số 123, ghi lại sau khi hạ sanh Thái Tử Sĩ Đạt Ta được bảy ngày, Hoàng Hậu Sirī Mahāmāyā Devī từ trần và tái sanh làm một vị Chư Thiên nơi cung trời Đâu Suất, Tusita.
Vào mùa hạ thứ bảy, để đền đáp công ơn sâu nặng của Phật Mẫu, Đức Thế Tôn ngự lên cung trời Đạo Lợi thuyết giảng Luận Tạng cho vị Chư Thiên đó, cùng với hội chúng đông đảo các vị Chư Thiên, Phạm Thiên vân tập từ cả mười ngàn thế giới (the ten thousand world–systems).
Sách Aṭṭhasālinī, bản chú giải của bộ Dhammasaṅgaṇī, mô tả chi tiết là Đức Thế Tôn thuyết giảng Abhidhamma liên tục trong suốt ba tháng an cư nơi cung trời Đao Lợi, thời thuyết giảng không hề gián đoạn.
Thời thuyết giảng không bị ngắt quãng, không ngưng nghỉ, giống như một dòng thác nước đổ từ trên cao xuống miền đất thấp.
Cùng trong ngày, Đức Thế Tôn hóa hiện ra một vị Phật khác (hóa thân) trở về cõi nhân loại để thuyết giảng nội dung tương tự cho Tôn giả Sāriputta.
Với cùng phương thức như thế, từ ngày này sang ngày khác, Tôn giả Sāriputta lảnh hội trọn vẹn giáo nghĩa Abhidhamma từ nơi Đức Thế Tôn trong mùa hạ thứ bảy.
Tôn giả Sāriputta sau đó giảng dạy lại Abhidhamma cho hội chúng bao gồm năm trăm vị đệ tử của vị ấy.
Sách Aṭṭhasālinī ghi chú rõ thêm vào thời kỳ Đức Phật Tổ Kassapa, năm trăm vị Tỳ Kheo đệ tử của Tôn giả Sāriputta chính là năm trăm con dơi cùng sống trong một hang động.
Hằng ngày cả bầy dơi được nghe lời tụng đọc Abhidhamma từ hai vị Tỳ Kheo đang tu tập trong ngôi hang động đó.
Tuy không hiểu được ý nghĩa thâm sâu của lời đọc tụng nhưng cả đàn dơi đều hoan hỷ, niềm tịnh tín, phát sanh hỷ lạc với âm thanh vang rền của Phạn âm: “Kusalā dhammā, akusalā dhammā, abyākatā dhammā ….”.
Khi năm trăm con dơi hết tuổi thọ, chúng chết với tâm thức hoan hỷ với âm thanh của lời kinh Pāli.
Ngay tức khắc, năm trăm con dơi tái sanh làm năm trăm vị Chư Thiên. Chư vị cùng sống hưởng phước báu thiên lạc trên các cõi trời từ thời kỳ Đức Phật Kassapa cho đến thời kỳ Đức Phật Gotama.
Đến thời kỳ Đức Phật Gotama, năm trăm vị Chư Thiên ấy tái sanh vào năm trăm gia đình danh gia vọng tộc ở thành phố Sāvatthī.
Sau khi chứng kiến tận mắt pháp song thông vi diệu mà Đức Thế Tôn thể hiện hàng phục ngoại đạo, cả năm trăm vị thiện gia nam tử đều đi xuất gia, trở thành môn đệ của Tôn giả Sāriputta.
Khi Đức Thế Tôn kết thúc mùa hạ thứ bảy cũng là lúc năm trăm vị đệ tử của Tôn giả Sāriputta lãnh hội trọn vẹn giáo nghĩa Abhidhamma từ nơi vị thầy bổn sư của chư vị.
Sách Aṭṭhasālinī có ghi rõ sau khi Đức Thế Tôn chấm dứt pháp thoại Abhidhamma ròng rã ba tháng trên cung trời Đao Lợi, vị Chư Thiên trước đây là mẹ của Ngài chứng đắc quả vị thánh nhân Nhập Lưu (sotāpatti).
Đồng thời cả hội chúng đông đảo bao gồm tám trăm ngàn triệu (eight hundred thousands of milions of deities) các vị Chư Thiên, Phạm Thiên đều chứng đắc thánh quả Nhập Lưu.
Theo truyền thống Phật giáo Theravāda, lịch sử của Abhidhamma Piṭaka được hình thành từ mùa an cư thứ bảy của Đức Thế Tôn.
Khi mãn hạ, theo lời thỉnh cầu của Tôn giả Anuruddha, Đức Thế Tôn trở về cõi nhân loại ở thành phố Saṅkassa.
Hội chúng các vị Chư Thiên, Phạm Thiên trong cả mười ngàn thế giới đồng tụ hội để tiễn đưa Đức Thế Tôn.
Khi mùa an cư lần thứ bảy đã qua và nghi lễ Tự Tứ (Pavāraṇā) hoàn tất, Đức Thế Tôn bảo với Đức Trời Đế Thích (Sakka): “Nay là thời Như Lai trở về cõi nhân loại”.
Đức Trời Đế Thích liền hóa hiện ngay ra ba chiếc thang: một chiếc bằng vàng, một chiếc bằng ngọc và một chiếc bằng bạc.
Cả ba chiếc thang bắc vào đỉnh núi Tu Di (Mount Sineru), còn phần chân thang đặt nơi cổng ngôi thành Saṅkassa.
Phía bên phải là chiếc thang bằng vàng dành cho hội chúng Chư Thiên, phía bên trái chiếc thang bằng bạc dành cho Đại Phạm Thiên và hội chúng Phạm Thiên.
Còn riêng chiếc thang ở chính giữa làm bằng ngọc dành riêng cho Đức Thế Tôn.
Khi Đức Thế Tôn đi đến nấc thang cuối cùng, Tôn giả Xá Lợi Phất là vị đệ tử đầu tiên đến đảnh lễ Ngài, kế đó là Tỳ Kheo Ni Uppalavaṇṇā, rồi toàn thể hội chúng đông đảo đến đảnh lễ Đức Thế Tôn.
Tất cả nhân thiên đều có dịp hy hữu nhìn thấy Đức Thế Tôn đi lần xuống từng bước một trên chiếc thang bằng ngọc, do vị trời Đế Thích tạo ra.
Hình ảnh huynh hoàng của Đức Thế Tôn tạo nên một ấn tượng thật mạnh mẽ trong tâm của toàn thể hội chúng đông đảo.
Tôn giả Xá Lợi Phất đã có lời đón chào Đức Thế Tôn với tám câu kệ ngôn, bắt đầu bằng: “Con chưa từng được thấy ai, chưa từng được nghe ai trước đó, một bậc thầy với lời nói khả ái, vị lãnh đạo hội chúng, từ cung trời Đao Lợi đi xuống”.
Sau đó, thay mặt cho năm trăm đệ tử thân cận, Tôn giả đã hỏi Đức Thế Tôn về trú xứ, sự tu tập giới hạnh và các phận sự cần thiết của một vị Tỳ Kheo.
Duyên theo các câu hỏi của Tôn giả Xá Lợi Phất, Đức Thế Tôn đã thuyết giảng bài kinh Sāriputta Sutta.
Kinh Sāriputta Sutta là bài kinh thứ 16 thuộc phẩm kinh Aṭṭhakavagga Sutta trong tập Suttanipāta, Tiểu Bộ Kinh.
Bài kinh có cả thảy 21 câu kệ ngôn. Mỗi câu kệ ngôn trong bài kinh Sāriputta Sutta giống như một viên ngọc bích lấp lánh tỏa ngời ánh sáng giải thoát.
Kinh Sāriputta Sutta thật sự là lời giáo huấn vàng ngọc của Đức Thế Tôn dành cho các vị hành giả bước đi trên con đường tu học.
Ngay khi Đức Thế Tôn kết thúc lời giảng Kinh Sāriputta Sutta, năm trăm vị đệ tử của Tôn giả Sāriputta đều chứng đắc quả vị thánh nhân A La Hán.
Đồng thời có 30 koṭis (mỗi koṭi là 10 triệu) Chư Thiên, Phạm Thiên và nhân loại cùng chứng đắc quả vị thánh nhân Nhập Lưu.
II. Đức Bồ Tát Di Lặc (Metteyya Bodhisatta) hạ sanh vào cõi nhân loại trong thời kỳ Giáo Pháp của Đức Phật Tổ Gotama.
Bồ Tát (Bodhisatta) là một chúng sanh có nguyện vọng trở thành một vị Phật.
Bồ Tát là chúng sanh có trí huệ giác ngộ.
Theo kinh điển Nikāya, danh xưng Bồ Tát để chỉ cho Đức Phật Gotama trước giai đoạn Ngài thành đạo.
Về sau, danh xưng Bồ Tát được mở rộng, để chỉ cho số ít chúng sanh nào có ước nguyện thành Phật.
Cuộc đời của một vị Phật được kể từ lúc thành đạt sự giác ngộ (Enlightenment), còn quãng thời gian trước đó thuộc về đời sống của một vị Bồ Tát.
Giáo lý về nghiệp báo và tái sinh trình bày vô số kiếp sống của Bồ Tát, trải dài từ trong quá khứ xa xôi.
Công hạnh của một vị Bồ Tát không thể nào thành tựu chỉ trong một kiếp sống, mà kéo dài trong khoảng thời gian lâu không thể nghĩ bàn, nói chính xác hơn là hàng A tăng kỳ kiếp.
Điều nầy được minh họa rõ trong các câu chuyện tiền thân hay bổn sanh truyện. Các câu chuyện bổn sanh về sau hình thành nên một chương văn học Pāli đặc biệt là văn học Jātaka.
Công việc của vị Bồ Tát bắt đầu bằng lời phát nguyện trước một vị Phật Tổ (abhinīhārakaraṇa) là sẽ trở thành một vị Phật tương lai vì lợi ích và hạnh phúc cho tất cả chúng sanh.
Có những yếu tố là điều kiện đủ để giúp cho lời phát nguyện trở thành hiện thực, như vị đó (candidate) phải là một hành giả chứng đắc thiền định, hơn nữa vị ấy có khả năng chứng đắc quả vị thánh nhân A La Hán ngay trong kiếp sống đó.
Và nhất là vị hành giả luôn kiên định, luôn nhắm tới mục tiêu thành Phật, bất chấp mọi khó khăn, gian lao thử thách như thế nào.
Theo bổn sanh truyện Vessantara Jātaka, tất cả chư Bồ Tát phải thực hành năm việc đại thí (mahā–pariccāya) là bố thí vợ, bố thí con, bố thí ngai vàng, bố thí tay chân và bố thí cả mạng sống.
Một vị Phật Tổ khi phê chuẩn lời phát nguyện của một vị Bồ Tát sẽ quán xét nhân duyên ở thời vị lai.
Nếu mọi việc đều tương hợp với lời phát nguyện chí thành, Đức Phật Tổ sẽ thọ ký ngay cho vị Bồ Tát sự thành tựu ở một thời điểm cố định, với đầy đủ mọi chi tiết.
Lời xác nhận hay thọ ký đó được gọi là lời “Veyyākaraṇa” của một vị Phật trong hiện tại.
Kế đến, các vị Phật Tổ tiếp theo sau đó sẽ lập lại lời thọ ký cho vị Bồ Tát chắc chắn sẽ thành Phật ở tương lai.
Một vị Phật không hề nói một lời nào sai với sự thật!
Tập kinh Buddhavaṃsa thuộc Tiểu Bộ Kinh ghi lại khi Đức Phật Tổ Nhiên Đăng (Dīpaṇkara Buddha) có lời thọ ký cho đạo sĩ Sumedha (tiền thân của Phật Tổ Gotama), vị đạo sĩ ấy hạnh phúc đến nỗi nghĩ mình sẽ thành Phật ngay ngày hôm sau.
Kể từ đó, công việc của Bồ Tát cho đến lúc thành đạo là thực hành mười pháp Ba La Mật (pāramitā).
Đó là bố thí (dāna), trì giới (sīla), xuất gia (nekkhamma), trí huệ (paññā), tinh tấn (viriya), nhẫn nại (khantī), chân thật (sacca), quyết tâm (adhiṭṭhāna), tâm từ (metta), và tâm xã (upekkhā).
Đức Bồ Tát là hình ảnh lý tưởng cho tất cả người con Phật. Với ý chí và nỗ lực phi thường, Đức Bồ Tát hướng đến sự thành tựu quả vị Phật vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, hạnh phúc và an lạc cho toàn thể Chư Thiên và nhân loại.
Đức Phật lịch sử GOTAMA là sự tiếp nối của dòng dõi Chư Phật từ quá khứ.
Trong tập kinh Buddhavaṃsa, Phật Sử, Đức Thế Tôn nói rõ trong hiền kiếp nầy (bhaddakappa), là nơi trái đất chúng ta đang sinh sống, đã chứng kiến sự xuất hiện của ba vị Phật là Đức Phật KAKUSANDHA, Đức Phật KOṆĀGAMANA và Đức Phật KASSAPA.
Đức Phật Gotama là vị Phật thứ tư trong thời hiện tại.
Ở tương lai, Đức Phật METTEYYA là vị thứ năm và là vị sau cùng của hiền kiếp.
Di Lặc là phiên âm của ngôn ngữ Pāli “Metteyya” và Sanskrit “Maitreyya”. Maitreyya là từ phái sinh của “Maitrī”, và Maitrī có xuất xứ từ “Mitra”, nghĩa là người bạn hay tình thương.
Đức Phật Metteyya hay Đức Phật Di Lặc là Đức Phật của tình thương.
Hiện nay Đức Bồ Tát Di Lặc đang ngự nơi cung trời Đâu Suất.
Sau khi Giáo Pháp của Đức Phật Gotama viên mãn vào năm Phật lịch 5000, Ngài sẽ giáng trần để tiếp tục hạnh nguyện tự giác, giác tha, cứu độ chúng sanh.
Làm thế nào để người con Phật có thể gặp được Đức Phật Metteyya? Đây là điểm thắc mắc chung của tất cả chúng ta.
Tập kinh Anāgatavaṃsa trong văn học Pāli có ghi lại những ai trong hàng tứ chúng đệ tử của Đức Thế Tôn luôn đầy đủ đức tin, sống nỗ lực, nhiệt tâm và chuyên cần đối với thiện pháp, những vị hành giả đó chắc chắn sẽ có diễm phúc diện kiến và đảnh lễ Đức Phật Metteyya.
Những ai luôn tôn kính Phật, người ấy sẽ gặp được Đức Phật ra đời vậy!
III. Ngày lễ Tự Tứ (Pavāraṇā) của chư tôn đức Tăng, đánh dấu hoàn mãn khóa tiền an cư (Vas).
Ba tháng an cư từ lâu đã trở thành sinh hoạt không thể thiếu trong nếp sống tu học nơi hàng đệ tử xuất gia của Đức Thế Tôn.
Từ Pāli “vassāvāsa” hiểu theo sát nghĩa là nơi ở của chư Tỳ Kheo Tăng trong mùa mưa. Vassāvāsa hiểu theo nghĩa thông thường là nơi an cư hay an cư kiết hạ (rain retreat).
Ở xứ sở Ấn Độ, thời tiết chia ra ba mùa rõ rệt là mùa lạnh, mùa nóng và mùa mưa.
Thoạt tiên, Đức Thế Tôn chưa chế định điều học liên quan đến việc an cư ba tháng mùa mưa cho hàng đệ tử.
Không ở một nơi nào cố định, các đoàn du tăng vẫn di chuyển, đi lại ngoài trời dưới những cơn mưa tầm tã.
Điều nầy làm cho người dân bắt đầu có lời ta thán, khiển trách:
_ Tại sao các vị Sa môn Thích tử cứ đi quanh năm suốt tháng như vậy. Họ đi lại rồi dẫm đạp cây cối, hư hại mùa màng, giết hại biết bao nhiêu là côn trùng. Ngay cả con thú còn chịu khó đào hang, con chim còn biết làm tổ trên cây để nghĩ ngơi trong mùa mưa mà!
Khi lời phê bình của người dân được trình lên Đức Thế Tôn, Ngài đã chế định ngay điều học cho chư vị đệ tử: “Nầy các thầy Tỳ Kheo,
Như Lai cho phép chư vị an cư vào mùa mưa – Anujānāmi, bhikkhave, vassāne vassaṃ upagantuṃ”, (Luật Đại Phẩm, Vinaya Piṭaka).
Điều học do Đức Thế Tôn chế định không chỉ ngăn đi lời chỉ trích của người dân mà còn tạo nên truyền thống tốt đẹp cho hàng Tăng lữ.
Truyền thống an cư kiết hạ hằng năm đóng góp yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển Tăng đoàn, cũng như tạo nên liên kết chặt chẽ giữa Chư Tăng với hàng tại gia cư sĩ.
Có hai thời điểm để chư tôn đức Tăng chuẩn bị vào hạ (vassūpanāyikā).
Thời kỳ đầu gọi là thời tiền an cư (purimikā), bắt đầu từ sau ngày rằm tháng Āsāḷha, tức là ngày rằm tháng sáu âm lịch.
Thời kỳ sau gọi là thời hậu an cư (pacchimikā), sau thời tiền an cư đúng một tháng.
Hai thời kỳ tiền an cư và hậu an cư đều kéo dài ba tháng trong khoảng thời gian mùa mưa.
Tất cả chư Tỳ Kheo Tăng đều bắt buộc phải thọ trì pháp an cư kiết hạ trong ba tháng, chư vị Sa di (Samaṇera) cũng phải tùng hạ với chư Tỳ Kheo.
Lúc ban đầu, khi người tín thí chưa cúng dường tịnh thất hay cốc liêu, chư tôn đức Tăng thường tìm đến gốc cây, hang động, một khu rừng thích hợp để nhập hạ.
Về sau, khi Đức Thế Tôn cho phép thí chủ cúng dường trú xứ, lúc đó chư vị hành giả sẽ chọn một ngôi chùa, tự viện phù hợp để an cư; hẳn nhiên nơi ngôi chùa hay tự viện đó phải hội đủ bốn pháp trợ duyên là pháp, tài, lữ và địa.
Khi đã vào kỳ an cư, các thành viên trong khóa tu sẽ thực hiện nghiêm túc nội quy là hạn chế việc đi lại. Nhưng các Ngài vẫn như thường lệ đi vào thôn xóm trì bình khất thực hằng ngày.
Các hành giả không được phép đi khỏi chỗ an cư cách đêm, nếu không có lý do chính đáng.
Ở đây, Đức Thế Tôn có điều chỉnh luật nghi một cách linh hoạt trong sinh hoạt an cư, bởi vì Ngài luôn để tâm đến sự an lạc (phāsutā) và lợi ích (suṭṭhutā) cho người đệ tử.
Khi bậc thầy tổ, các vị huynh đệ, hay người thân bị bệnh, chư tôn đức được phép đi xa để viếng thăm.
Khi có người thí chủ ở xa cung thỉnh đến giảng Pháp hay cúng dường, chư vị có thể nhận lời, nhưng thời gian vắng mặt nơi an cư không được phép quá bảy ngày.
Chư vị sẽ sắp xếp hoàn thành công việc nhanh nhất có thể để trở về chỗ an cư trong tuần.
Chư vị không được phép tự ý rời bỏ chỗ an cư khi chưa hết thời hạn ba tháng; tuy nhiên, nếu có những trường hợp bất khả kháng như sự xuất hiện của thú dữ, trộm cướp, các loài phi nhân v.v…. các Ngài có thể bỏ đi nơi khác (cancel rain retreat) mà không vi phạm vào điều luật an cư.
Tinh thần của ba tháng an cư là để các vị hành giả xuất gia thúc liễm thân tâm, trau dồi giới thân huệ mạng, tiến tu về phương diện tâm linh, được hiểu như một khóa tu học tích cực (intensive course).
Khi ở yên một chỗ, không phải bận rộn với việc hoằng pháp lợi tha, chư Tỳ Kheo Tăng sẽ tận dụng tối đa thời gian quý báu để tập trung vào việc học Pháp (pariyatti), hành Pháp (paṭipatti), để đạt tới Pháp thành (paṭivedha).
Rất nhiều vị hành giả đã thành tựu sự giác ngộ và giải thoát ngay trong khóa an cư, như Tôn giả Ānanda chỉ ngay trong mùa hạ đầu tiên đã chứng đắc quả vị thánh nhân Nhập Lưu.
Tôn giả Cakkhupāla, trong câu chuyện dẫn nhập cho kệ ngôn Pháp Cú số 1, thọ trì pháp đầu đà ngăn oai nghi nằm trong suốt ba tháng. Khi mãn hạ, Ngài đã đạt đến quả vị thánh nhân A La Hán
Nhóm năm trăm vị Tỳ Kheo nơi câu chuyện dẫn nhập cho bài kinh Metta Sutta đồng chứng đắc quả vị Ứng Cúng trong mùa an cư ở vùng miền núi Hy mã lạp sơn.
Thật là điều kỳ diệu và phước báu hy hữu của khóa an cư ba tháng hạ!
Những vị đàn na, tín thí chuyên tâm hộ trì cho Chư Tăng về tứ sự trong khóa an cư sẽ được hưởng phước báu vô lượng. Các vị Phật tử nhiều tín tâm đó đã gieo được nhân lành trong mảnh phước điền của chư tôn đức Tăng.
Trong mùa an cư, Chư Tăng thuận duyên giảng dạy Giáo Pháp cho người Phật tử, khuyến khích họ trên con đường hành thiện, tu tập công đức và phước báu.
Không khí sinh hoạt nơi các đạo tràng an cư thật thiêng liêng và đạo vị khi số đông các Phật tử vân tập về chùa thiết lễ cúng dường, và lắng nghe Chư Tăng đọc kinh Paritta phúc chúc phước báu.
Có thể nói bậc xuất gia chuyên tâm trong việc hoằng pháp, còn người tại gia hết lòng hộ pháp. Chính mối tương quan mật thiết nầy đã giúp cho ngôi nhà Phật Pháp được bền vững và phát triển hơn hai ngàn năm qua.
Sau khi kết thúc mùa an cư vào ngày rằm tháng chín, thời tiền an cư, Chư Tăng sẽ cử hành khóa lễ Pavāraṇā, lễ Tự Tứ, để các thành viên trong Tăng đoàn cùng sách tấn, động viên nhau trong việc tu học. Kể từ thời điểm nầy, mỗi vị xuất gia sẽ được thêm một tuổi hạ.
Và kế đến là khóa lễ dâng y Kaṭhina đem lại thật nhiều phước báu cho Chư Thiên và nhân loại.
Nhân dịp mãn kỳ an cư mùa mưa Phật lịch 2567, Facebook Pháp Bảo Tự thành kính đảnh lễ và kính dâng lên chư tôn đức Tăng lời khánh tuế.
Chúng con kính chúc đến toàn thể chư tôn đức Tăng được thêm một tuổi hạ, kính chúc đến quý Ngài pháp thể khinh an, đạo thọ miên trường, bồ đề tâm viên đắc, chúng sanh dị độ.
Chúng tôi có lời cầu chúc phước báu đến tất cả chư thiện nam, tín nữ ở nhiều nơi.
Quý vị là những vị hộ pháp rất nhiệt thành, đã hỗ trợ cho Chư Tăng về phương diện tứ sự: y phục, thực phẩm, trú xứ và dược phẩm trị bệnh trong suốt ba tháng an cư mùa mưa.
Thành tâm kính chúc đến chư quý vị và gia đình luôn thành tựu năm điều hạnh phúc là sống lâu, sắc đẹp, an vui, sức mạnh và trí huệ, nhất là thành tựu đạo quả Niết Bàn trong ngày vị lai.
Kính chúc đến tất cả đều thành tựu ân phước của ngày đại lễ Vap Poya Day.
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB