Diệt của các phiền não
DIỆT CỦA CÁC PHIỀN NÃO
… Ở nơi này, người hành thiền thực hành chánh niệm liên tục để vượt qua các phiền não.
Phiền não sanh là do thiếu chánh niệm và cho dù chúng không sanh vào lúc thấy, nghe,…chúng vẫn có thể tìm được chỗ thoát ra trong lúc chúng ta mơ màng nhớ lại. Những phiền não như vậy được gọi là anusaya kikesā, hay phiền não ngủ ngầm trong mỗi chúng ta.
Với sự phát triển của định, người hành thiền thường giữ chánh niệm sẽ chỉ biết có thân và tâm hay danh và sắc trong trạng thái thai đổi không ngừng. Vào lúc đó vị ấy sẽ có một cái nhìn thấu thị vào bản chất vô thường, khổ, và vô ngã của chúng; và sự hiểu biết sâu sắc này sẽ không để lại chỗ trống cho tham, sân, và si.
Vì thế những tham muốn bất thiện như muốn sát sanh, trộm cắp, … bị dập tắt. Người hành thiền vượt qua được tham, sân, si khi họ có chánh niệm về chúng.
Đây là cách vượt qua phiền não bằng sự đối nghịch hay nhất thời đoạn trừ (tadaṅgapahāna, bỉ phần đoạn trừ).
Khi minh sát trí thành thục, người hành thiền đạt đến thánh đạo. Ở giai đoạn Nhập Lưu, thân kiến, tà kiến, hoài nghi, và tất cả những tham muốn ác dẫn đến bốn cõi khổ bị dập tắt.
Sau đó, ở giai đoạn Nhất Lai, người hành thiền yên trí đã diệt hoàn toàn những ác pháp thô kết hợp vớt tham dục và sân hận.
Ở giai đoạn Bất Lai, vị ấy hoàn toàn thoát khỏi những hình thức vi tế của sự thiên hướng bất thiện.
Khi ở giai đoạn cuối cùng, với sự chứng đắc A–la–hán thánh quả, vị ấy được giải thoát khỏi mọi ác pháp có gốc trong hữu ái, ngã mạn và vô minh.
Để thành tựu sự giải thoát này, người hành thiền phải chánh niệm liên tục. Mỗi sát na chánh niệm có nghĩa là người hành thiền đã thực hành pháp đoạn giảm ở mức cao nhất của nó.
Dù những người không chánh niệm có sát sanh, trộm cắp … người hành thiền nguyện sẽ tránh tất cả những hành động xấu nhờ luôn luôn chánh niệm,… theo sau những gì họ thấy, nghe…
Không chánh niệm có nghĩa là đang nuôi dưỡng tiềm lực cho những hành động xấu và chọn con đường lầm lạc (tà đạo) dẫn đến sát sanh, trộm cắp v.v…
Mỗi khoảnh khắc chánh niệm đánh dấu một bước tiến trên sự phát triển tâm linh.
Mới đầu, người hành thiền cũng chỉ là một kẻ phàm phu ngu mê, không biết gì về sự sanh và diệt của các hiện tượng tâm–vật lý.
Nhờ chánh niệm họ phát triển được định, minh sát trí và sự hay biết về thân (sắc) như đối tượng của sự biết và tâm (danh) như chủ thể biết. Đây là bước thứ nhất.
Bước thứ hai là sự hay biết về nhân và quả như chỉ là hai phương diện của thực tại.
Kế tiếp, với những giai đoạn khai sáng tiếp theo sau có sự nhận thức rõ ràng về tính chất vô thường, khổ, và vô ngã.
Đó là những gì mà chính những hành giả ở đây tiết lộ với chúng tôi. Trong số họ, gồm cả nam lẫn nữ, đã có một cái nhìn đặc biệt rõ ràng (vào bản chất của sự hiện hữu có tính hiện tượng).
Trước khi một người thực hành Pháp (Dhamma), kiến thức về pháp của người ấy còn hạn chế và chỉ dựa vào truyền thống.
Sau một thời gian thực hành những chỉ dẫn của người thầy không còn tạo ra những ấn tượng và làm phát khởi sự thích thú như trước nữa. Chính sự thực hành đã khai sáng tâm khiến người hành thiền biết được bản chất của thực tại.
Một vài người không biết điều gì đã tạo thành kinh nghiệm của người hành thiền. Họ nói rằng họ không thể nhớ hết những gì tôi dạy, do đó không nói rành mạch được bài giảng của tôi.
Dĩ nhiên, có thể là tôi [Ngài Mahasi Sayadaw] đã không giảng một điều gì đó để họ có thể hiểu rõ. Nhưng với các thiền sinh đã hành thiền và có kinh nghiệm sẽ thực sự hiểu những lời dạy của tôi.
Có thể có những lời dạy khác không làm thoả mãn họ hoàn toàn. Đối với họ những bài pháp trau chuốt tỉ mỉ với những trích dẫn, những ví dụ, những ảnh dụ từ kinh điển sẽ không có giá trị nếu tách rời khỏi thực hành.
Để nói về bản chất của hợp thể thân–tâm hay về vô thường bằng ngôn ngữ kinh điển Pāḷi đòi hỏi phải có những giải thích chi tiết cùng với những ví dụ nhưng đối với người hành giả đang hành thiền sự phân biệt giữa danh và sắc hay sự diệt của tất cả hiện tượng đã được vị ấy xác chứng ở từng sát–na chánh niệm.
Vì vậy những hành giả này hiểu đúng được lời dạy của tôi [Ngài Mahasi Sayadaw] và lượng định nó trên căn bản của sự kinh nghiệm. Đây quả thực là một bước tiến trên sự phát triển tâm linh của họ.
Nhờ hành thiền vị hành giả thực chứng vô thường, khổ và vô ngã và đạt đến các giai đoạn minh sát trí (vipassanāñāṇa) khác nhau.
Trong số đó, Sanh diệt trí (udayabbayañāṇa) được xem là nổi bật. Vì ở giai đoạn này sự nhận thức rất nhanh lẹ; trí tuệ sắc bén; dường như không có gì mà (người ấy) không nhận thức hay biết được.
Vị hành giả trải nghiệm những điều kỳ lạ, như thấy ánh sáng và tâm ở trong trạng thái cực kỳ ngây ngất… Cảm giác hoan hỷ không thể mô tả được này Đức Phật gọi là “amanusirati”, tức một sự hoan hỷ vượt xa tầm với của người bình thường. Tuy nhiên, hành giả cũng chỉ cần ghi nhận những giai đoạn tâm hoan hỷ này và từ bỏ nó để đạt đến Diệt Trí (bhaṅgañāṇa).
Ở giai đoạn chứng diệt trí này đối tượng biết cũng như tâm hay luôn biết biến mất. Cái nhìn về hình thể con người với đầu, cổ, chân, tay,… của nó không tìm thấy đâu cả. Mọi thứ đều diệt mất và một cái nhìn thấu thị vào bản chất vô thường, khổ và vô ngã bắt đầu mở ra cho hành giả.
Diệt trí được theo sau bởi các giai đoạn minh sát trí (vipassanāñāṇa) nối tiếp nhau khác, đó là, bố uý trí hay trí quán sự sợ hãi (bhayañāṇa), quá hoạn trí hay trí quán sự nguy hiểm (ādīnavāñāṇa), …mà chúng tôi đã đề cập trong một bài giảng trước.
Sau đó, người hành thiền đạt đến Hành xả trí (saṅkhārupekkhāñāṇa), một loại trí minh sát rất vi tế kéo dài trong khoảng hai hay ba giờ và được biểu thị đặc tính bằng sự nhận thức tự động, không cần nỗ lực, và xả. Trí này sẽ dẫn đến Thuận thứ trí, hay tuỳ thuận trí (anulomañāṇa) và rồi cuối cùng đến thánh đạo và thánh quả trí (ariyamaggaphalañāṇa) ở mức Nhập Lưu (Sotāpanna).
Nếu hành giả tiếp tục thực hành chánh niệm, hành giả sẽ kinh qua hai tầng thánh khác (Nhất Lai và Bất Lai Thánh Đạo) và cuối cùng đạt đến A–la–hán thánh quả, mục đích tối thượng của đời phạm hạnh. Như vậy, tiến bộ trên đạo lộ (giải thoát) đi đôi với sự chánh niệm liên tục và vì thế chúng ta phải thực hành chánh niệm để nâng cao tinh thần và chiến thắng cắc phiền não.
[Mahasi Sayadaw – Luận giải Kinh đoạn giảm]
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB