Tại sao mang gánh nặng ngũ uẩn (p2): ba loại ái (taṅhā)
TẠI SAO MANG GÁNH NẶNG NGŨ UẨN (P2): BA LOẠI ÁI (TAṄHĀ)
–––––––––––––––
Ái có ba loại, đó là:
⑴ dục ái (kāmataṅhā), tham đắm các dục lạc thế gian;
⑵ hữu ái (bhavataṅhā) tham đắm các dục lạc thế gian kết hợp với quan niệm về sự thường hằng, hay thường kiến;
⑶ phi hữu ái (vibhavataṅhā), tham đắm các dục lạc thế gian kết hợp với quan niệm của chủ nghĩa hư vô hay đoạn kiến.
Ba loại ái này tiếp nhận và chấp nhận cái gánh nặng Bản Thân gọi là các uẩn.
I. KĀMATAṄHĀ (Dục ái)
–––––––––––––––
Dục ái là khao khát những đối tượng đem lại những vui thích nhục dục. Những đối tượng này có thể bắt nguồn từ trong chính chúng ta hay trong những người khác.
Khi những điều vui thích hay đẹp đẽ hấp dẫn chúng ta, ngay lập tức chúng ta phải nhận ra rằng tham ái đối với những vật đó đã hình thành trong chúng ta.
Ở đây, những đối tượng giác quan xinh đẹp không chỉ có nghĩa là những đối tượng chính của sự vui thích và xinh đẹp.
Khi chúng ta nói đến một cô gái đẹp hay một cậu trai đẹp chúng ta không chỉ nói đến cô gái hay cậu trai có ngoại hình xinh đẹp, mà còn muốn nói đến những vật phụ tùng của cái đẹp đó như áo quần, …
Vì thế khi chúng ta nói tham ái đã hình thành, chúng ta không chỉ có ý nói tham ái đã phát triển đối với cảnh sắc và âm thanh thú vị, mà còn muốn nói đến những vật phụ tùng đi kèm với chúng.
Khi chúng ta nói về sự khát khao mùi thơm, vị ngon, xúc chạm khả lạc và những hình ảnh tưởng tượng trong tâm.
Khi chúng ta ao ước được tái sanh làm người, làm chư thiên, làm đàn ông, đàn bà, v.v… thì suy xét theo cách tương tự, mọi ao ước của chúng ta đều liên quan đến các dục lạc được trông đợi từ các dục trần sẽ xuất hiện ở sáu giác quan mà thôi.
Sự phát triển của tham ái là do vô minh (avijja). Vô minh hay si mê, vừa che đậy bản chất thực của mọi hiện tượng, vừa để lộ ra mặt trái của sự thực, vì vậy nó góp phần vào sự xuất hiện của tà tư duy.
Vì nó che đậy sự thực nên cái giả có điều kiện thuận lợi xuất hiện.
Theo cách này vô minh cho thấy vô thường là thường, bất toại nguyện là toại nguyện và không có thực thể là có thực thể.
Chính vì vậy vô ngã (anatta) bị lầm chấp là ngã (atta).
Tương tự như vậy, bất thiện được xem là thiện, bất tịnh được xem là tịnh,….
Khi vô minh có mặt thì tham ái và chấp thủ sanh, và do tham ái này chúng ta cố gắng hết sức để hoàn thành khát vọng của chúng ta; và khi chúng ta ra sự nỗ lực để hoàn thành khát vọng ấy, nghiệp (kamma) và các hành (saṅkhāras) bắt đầu hoạt động. Chúng tạo ra các Uẩn mới.
Vì thế, sau đời sống này chúng ta đi qua một đời sống khác trong một uẩn mới, tất cả là do tham ái được vô minh thúc đẩy. Cuối cùng chúng ta bị bỏ lại với gánh nặng phải mang.
1. Những khát vọng không thành
–––––––––––––––
Chúng ta luôn luôn muốn cái tốt nhất, nhưng hiếm khi chúng ta đạt được nó.
Một người mong ước được trở thành một con người hay một vị chư thiên; nhưng thay vì trở thành những gì mình mong muốn người ấy có thể phải đi xuống bốn cõi thấp hay đi đến ngạ quỷ giới do sức mạnh của nghiệp. Hay người ấy cũng có thể tái sanh làm một con thú, như trâu, bò, gà, vịt hay một con côn trùng nào đó…
Cuộc đời giống như đang đặt cược trong một cuộc rút thăm xổ số vậy. Mọi người đặt cược số tiền của mình vào xổ số hy vọng sẽ đoạt được giải nhất. Nhưng chỉ người may mắn nhất đoạt được. Những người còn lại phải hài lòng với những giải thấp hơn. Phần lớn ra đi với giải vài ngàn đồng. Người kém may mắn nhất chỉ rút được những con số không và chẳng được gì cả.
Rõ ràng không phải mọi người đều được giải nhất. Tương tự như vậy, không phải mọi người ai cũng có thể trở thành người hay chư thiên. Chỉ ai có nghiệp tốt mới được tái sanh vào những cảnh giới cao ấy.
Mà thiện nghiệp thì chỉ có thể thành tựu bằng việc thực hành bố thí, giữ giới, và hành thiền. Những người không tạo được những thiện pháp này không thể có được lối vào cõi người hay cõi chư thiên được; đã thế họ còn có thể phải bị đưa tới những cõi thấp như địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh,…
Phát nguồn của tất cả Uẩn mới là tham ái (taṇhā), tham ái vốn tìm thấy sự thích thú trong các đối tượng khả lạc; và do đó nó được nói là người chấp nhận gánh nặng.
Mỗi lần chúng ta chấp nhận một trần cảnh đáng mong muốn, chúng ta đang chấp nhận cái gánh nặng năm uẩn.
Sau khi đã chấp nhận nó, chúng ta phải mang nó và phải phục vụ nó trong bốn mươi năm, năm mươi năm hay một trăm năm cuộc đời của chúng ta giữa những gian truân và đau khổ không thể nói hết được.
Trước đây, nếu chúng ta nhận ra điều này ắt hẳn chúng ta sẽ nhìn sự tham đắm vào các dục trần của chúng ta với sự ghê tởm rồi.
Thực sự chúng ta sẽ còn khiếp sợ hơn nếu chúng ta biết trước rằng do tham ái này chúng ta sẽ phải tái sanh vào cõi súc sanh để mang cái gánh nặng ngũ uẩn của con vật, hay tệ hơn, chúng ta phải tái sanh vào cõi ngạ quỷ để mang cái gánh nặng năm uẩn của ngạ quỷ. Trước đây tôi đã nói cho quý vị biết về các ngạ quỷ phải chịu khổ do những ác nghiệp mà chúng phạm rồi.
Nếu chúng ta biết trước rằng những tham muốn này cuối cùng sẽ dẫn chúng ta đến địa ngục ắt hẳn tất cả chúng ta sẽ ghê sợ hơn.
Vua A–xà–thế có một tham muốn mãnh liệt đối với cuộc sống xa hoa của một vị vua. Do đó, ông đã giết chết cha của mình để soán ngôi. Do hậu quả của ác nghiệp này, ông bị ném vào địa ngục để chịu khổ trong vạc đồng sôi.
Và bốn chàng thanh niên con nhà giàu, do những tham muốn nhục dục của họ, đã bị đưa xuống đó sau khi chết. Khi còn làm người bốn thanh niên này đã phạm tội tà dâm, bằng cách dùng tiền cám dỗ vợ của người khác để ngủ với họ.
Lohakumbhī là một cái vạc kích thước rất lớn. Bốn tội nhân này đã bị luộc trong cái vạc nấu sắt nóng chảy (đồng sôi) này, lúc thì chìm xuống dưới đáy vạc lúc thì nổi lên trên mặt đồng sôi, rất nhiều lần như vậy.
Mỗi lần chìm từ trên bề mặt xuống đáy vạc mất 30 ngàn năm, và phải mất 30 ngàn năm khác để trồi lên trên bề mặt trở lại. Vì thế, sau một đợt 60 ngàn năm, bốn chàng thanh niên này mới gặp lại nhau trong một khoảnh khắc rất ngắn ngủi trên bề mặt nước đồng sôi, và mỗi người cố tìm cách nói một điều gì đó về tình trạng đau khổ của họ.
Nhưng mỗi người chỉ vừa nói lên được một vần thì phải chìm xuống dưới đáy trở lại. Những gì họ cố gắng muốn nói chỉ có thể được nghe và ghi lại như “Du, Sa, Na và So”.
Chàng thanh niên đầu tiên thốt lên được vần “Du”, ý muốn nói rằng trong lúc anh còn là người anh đã không hành pháp bố thí và giữ giới mà dành cả cuộc đời mình làm điều ác. Ngay khi anh vừa mới bắt đầu muốn nói lên những điều ấy thì anh bị kéo xuống đáy vạc.
Chàng thanh niên thứ hai bắt đầu phát ra được chữ “Sa” muốn nói rằng anh đã phải ở hơn sáu mươi ngàn năm dưới địa ngục và tự hỏi không biết bao giờ mới được thoát khỏi nơi đây. Cũng như chàng thanh niên thứ nhất, anh chỉ có thể thốt lên được một vần là đã bị kéo xuống đáy trở lại.
Chàng thanh niên thứ ba cũng chỉ vừa đủ thời gian để nói lên âm “Na” thì đã bị chìm xuống. Anh muốn nói rằng anh và các bạn anh không thể thấy được chỗ tận cùng của khổ đau vì trong kiếp sống làm người, bọn anh đã không làm được gì ngoài những điều ác.
Chàng thanh niên cuối cùng la lên được âm “So” và chìm xuống đáy, ý anh muốn bày tỏ sự hối tiếc của mình và hứa rằng nếu thoát khỏi địa ngục anh sẽ hành pháp bố thí và giữ giới để tạo phước.
2. Ăn năn
–––––––––––––––
Chắc chắn bốn chàng thanh niên trên rất ăn năn. Nhưng điều đó không ích lợi gì cả vì những hối tiếc ấy đến sau khi điều ác đã phạm và đã tạo ra quả rồi.
Vì thế Đức Phật luôn luôn bắt chúng ta phải có sự ghi nhớ (chánh niệm) sớm hơn.
“Này các Tỳ–kheo! Hãy ghi nhớ trong tâm điều này. Đó là các thầy phải luôn luôn thận trọng cảnh giác chớ để cảm thấy hối tiếc chỉ sau khi đã phạm vào những điều ác. Ta đã cảnh tỉnh các thầy rất nhiều lần về điều này.”
Thực vậy, bạn phải luôn thận trọng cảnh giác, không được quên mình trong hiện tại. Bạn dễ bị thất niệm khi lang thang trong sự xa hoa của các dục lạc.
Do đó Đức Phật cảnh báo chúng ta không nên để cho tâm chạy theo các dục lạc này.
Chỉ khi bạn đã về già, hay khi bạn cận kề cái chết, hoặc khi bạn đã bị đọa vào bốn cõi khổ — địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, A–tu–la, bạn mới cảm thấy hối tiếc vì đã không thực hành pháp khi bạn còn khỏe mạnh tráng kiện trong kiếp sống làm người.
Nhưng lúc đó thì đã quá trễ. Hối tiếc cũng vô ích vì trong những hoàn cảnh kể trên bạn sẽ không thể làm được điều gì để sửa đổi được.
Hiện tại bạn đang có cơ hội để thực hành minh sát, hãy thực hành ngay đi.
Dù là tu sĩ hay người tại gia cư sĩ, chúng ta nên nghiêm túc suy xét những lời này của Đức Phật và thực hành đúng theo lời khuyên dạy của ngài.
Hiện tại chúng ta đang hưởng thụ cuộc sống, nhưng trong bao lâu? Bỏ qua giai đoạn niên thiếu và lúc tuổi già, thời gian còn lại khoảng bốn mươi hay năm mươi năm gì đó là thời gian chúng ta phục vụ các uẩn này.
Nếu trong khoảng thời gian phục vụ đó, cuộc đời chúng ta không có những thiện nghiệp hỗ trợ, chắc chắn chúng ta sẽ chỉ tích tạo được những điều phi phước và những bất thiện nghiệp này sẽ hướng chúng ta đến bốn cõi khổ.
Bốn chàng thanh niên con nhà giàu đã chìm xuống đáy địa ngục khi vừa kêu lên được mấy vần “du, sa, na, so,” và phải chịu khổ hàng ngàn, hàng ngàn năm ở dưới đó. Những bất thiện nghiệp có thể hướng chúng ta đến cái số phận giống như số phận mà bốn tội nhân này đã gặp.
Quý vị cũng phải nhớ đến cái số phận của những ngạ quỷ mà tôi đã có dịp nói đến ở trước. Những ngạ quỷ này — hiện vẫn còn đang chịu khổ trong địa ngục hoặc trong cảnh giới ngạ quỷ — đã chiều theo những tham muốn của các uẩn mà quên làm những phước sự như bố thí và giữ giới.
Nếu như, trong suốt kiếp hiện tại này, chúng ta không lo thực hành pháp đế chứng ngộ đạo quả, mà nhân nhượng cho những tham muốn nhục dục, ai có thể bảo đảm rằng chúng ta sẽ không đi đến bốn cõi khổ sau khi chết?
Lúc này là cơ hội để chúng ta gặt hái những lợi ích của Phật Pháp vì giáo pháp của ngài vẫn còn đang hưng thịnh.
Hãy nắm lấy cơ hội này bằng cách kính trọng và thực hành pháp bố thí, trì giới và tu thiền nhất là thiền minh sát.
Liên quan tới điều này, có một bài kệ do một vị Sayadaw lão luyện sáng tác như sau:
“Hỡi này thân ngũ uẩn! Ta chẳng phải là nô lệ của ngươi cũng chẳng phải là tay sai của ngươi.
Sau khi gặt hái những lợi ích trong giáo pháp của Đức Phật, Ta sẽ không còn nuôi dưỡng hay chăm sóc ngươi nữa đâu.”
Trước thời Đức Phật, khi giáo pháp của ngài vẫn chưa được truyền bá, người ta nuôi dưỡng thân theo mệnh lệnh của nó.
Nhưng khi Đức Phật dạy rằng thân ngũ uẩn này là một gánh nặng đối với họ, rằng gánh nặng này là rất nặng, rằng ngũ uẩn này cho dù có được nuôi dưỡng như thế nào nó cũng không bao giờ biết thỏa mãn, rằng chúng chẳng bao giờ có thể là chỗ dựa của chúng ta trong những cơn khủng hoảng, vì chúng là vô thường, rằng nuôi dưỡng chúng đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ phải chịu những khổ đau không kể xiết trong bốn cõi khổ suốt vòng luân hồi này, mọi người đã ngưng không còn chiều theo những tham muốn của chúng và chuyển tâm sang việc thực hành pháp.
Tại sao họ lại ngưng được như vậy? Bài kệ thứ hai sẽ là câu trả lời.
“Ta đã nuôi dưỡng ngươi vậy mà ta vẫn phải chịu những thống khổ không sao kể hết trong vòng luân hồi bất tận này.”
Nāhaṁ dāso bhaṭo tuyhaṁ
Nāhaṁ posemi dāni taṁ
Tvameva poseno dukkhaṁ
Patto vaṭṭe anappakaṁ
Thế đấy, chúng ta đã chiều theo những ước vọng và tham muốn của thân chúng ta. Khi chúng ta được lệnh đi, chúng ta đi; khi chúng ta được lệnh nói, chúng ta nói; khi chúng ta được lệnh đi tìm thức ăn cho chúng, chúng ta đi tìm thức ăn.
Theo cách này chúng ta đã làm đầy tớ cho thân của chúng ta. Có lẽ khi làm đầy tớ, chúng ta đã hoàn tất những nhiệm vụ của chúng ta một cách trung thành và chính đáng.
Mặc dù làm những công việc này rất mệt mỏi; nhưng chúng ta nghĩ nó không tạo ác nghiệp. Vì thế việc phục vụ ấy có thể là đúng. Nhưng nếu, trong quá trình phục vụ cho cái thân của chúng ta, chúng ta phải làm điều ác, như kiếm sống bằng những phương tiện bất lương, chúng ta cũng sẽ phải làm. Và tất nhiên chúng ta sẽ phải bị trôi lăn trong vòng luân hồi bất tận, chịu cái khổ của bốn ác đạo.
Chẳng hạn, để duy trì sự sống chúng ta có thể phải dùng đến sát sanh, hay cướp bóc, hay trộm cắp, hay lừa đảo, v.v… Hoặc có thể chúng ta phải vu khống người khác, hay tham gia vào những chiến dịch tuyên truyền dối trá chống lại người khác, chỉ để trục lợi từ việc tạo ra bất hòa giữa họ mà thôi.
Tất cả những việc làm này là akusala dhamma (bất thiện pháp), vốn lót đường cho chúng ta đi đến địa ngục. Cho dù có may mắn được tái sanh lại làm người hay chư thiên chúng ta cũng sẽ phải chịu khổ bất chấp sự hiện hữu ở các cõi ấy là thuận lợi.
3. Khổ được thấy trước bởi bậc trí và những người hành thiền
–––––––––––––––
Những khổ đau nhiều loại vừa kể chỉ liên quan đến những kẻ phàm phu bình thường.
Đối với bậc trí và người hành thiền thì ngay cả cuộc sống hạnh phúc rõ ràng của con người, của chư thiên, và phạm thiên cũng được xem như phải chịu khổ (dukkha).
Trong cõi nhân loại này, mặc dù một người có thể cảm giác rằng mình đang rất hạnh phúc, người ấy cũng thực sự bị chất nặng bởi năm uẩn, cái mà họ phải cho nó ăn và nuôi dưỡng suốt cả cuộc đời mình. Điều này tự nó là khổ.
Và cái khổ sẽ rõ ràng hơn khi bạn ngã bệnh. Lúc đó những người không có quan hệ gì với bạn sẽ chẳng ai lo lắng chăm sóc cho bạn.
Tất nhiên bạn có thể trả tiền để mướn một y tá hay vú nuôi chăm sóc cho mình; nhưng ngay cả như vậy cũng không có gì chắc chắn rằng cô ta có thể chăm sóc bạn mỗi ngày và trong một thời gian lâu dài được, dù bạn có tiếp tục trả cho cô ta những món tiền lớn hơn.
Khi chúng ta nói về đời sống của chư thiên có lẽ chúng ta không thể nói với sự chắc chắn được vì chúng ta chưa bao giờ thấy họ.
Họ cũng sẽ có cái khổ (dukkha) của việc thỏa mãn những ham muốn dục lạc của họ. Vua của chư thiên nghe đồn là có rất nhiều thiên nữ hầu hạ. Nhưng có lẽ thiên vương không bao giờ có thể thỏa mãn hết những tham muốn của họ. Và khi họ không được thỏa mãn, khổ đau tất nhiên sẽ nhiều hơn.
Phạm thiên là những chúng sinh giới đức trong sạch, không sống trong sự hưởng dục. Nhưng ngay cả như vậy họ cũng sẽ có những rắc rối với các hành (saṅkhāras) của họ, vì họ luôn luôn phải bận rộn suy nghĩ chuyện này chuyện kia để giết thời gian khi họ còn mang gánh nặng của các uẩn.
Người có trí hay người hành thiền sẽ xem những vấn đề này là khổ (dukkha).
Nếu bạn ngồi suốt cả ngày không làm điều gì cả bạn sẽ cảm thấy mệt mỏi.
Nếu bạn cứ phải ngồi trầm ngâm suy nghĩ suốt cả tháng trời như vậy bạn sẽ cảm thấy đau khổ.
Vậy thì chúng ta sẽ nói như thế nào về các vị Phạm thiên ngồi suốt cả trăm năm hay cả ngàn năm chẳng làm gì cả ngoại trừ trầm ngâm suy nghĩ ? Đây là Hành Khổ (saṅkhāra dukkha) … cái khổ của việc đắm chìm trong những hoạt động của tâm (tâm hành).
Khi một vị Phạm thiên chết vị ấy sẽ quay trở lại cõi nhân loại vốn đang chờ vị ấy với tất cả những khổ đau kèm theo của kiếp người.
Khi những hoàn cảnh không thuận lợi xuất hiện ngay cả một vị Phạm thiên cũng có thể phải tái sanh làm một con vật hay một ngạ quỷ, hay trong trường hợp xấu nhất vị ấy vẫn có thể phải đi xuống địa ngục như thường.
Vì thế, từ quan điểm của một bậc trí hay một hành giả thì tái sanh làm Phạm thiên cũng không phải là điều đáng thèm muốn, vì Phạm thiên cũng phải mang cái gánh nặng của năm uẩn vốn báo trước sự khổ (dukkha).
Vì lý do đó, vào cái đêm trước khi viên tịch (parinibbāna) các bậc thánh A–la–hán thường quán:
Ta sẽ còn phải gánh cái gánh nặng của năm uẩn vốn là khổ này trong bao lâu nữa đây?
(Còn tiếp)
– Hết trích dẫn –
Nguồn trích dẫn: GIẢNG GIẢI KINH GÁNH NẶNG – Thiền Sư Mahasī Sāyadaw.
FB LINKS: KINH GÁNH NẶNG GIẢNG GIẢI – MAHASI SAYADAW
(1) bốn chấp thủ, FB
(2) chấp thủ phát sanh như thế nào?, FB
(3) ngã luận thủ (chấp thủ vào ý niệm về tự ngã), FB
(4) loại trừ ảo tưởng về tự ngã – atta, FB
(5) atta có thể bỏ qua nhờ ghi nhận chánh niệm, FB
⑴ ngũ thủ uẩn – gánh nặng thực sự, FB
⑵ như thế nào là mang lấy gánh nặng ngũ uẩn?, FB
⑶ gánh nặng ngũ uẩn nặng như thế nào?, FB
(4) quả báo ác nghiệp phục vụ gánh nặng ngũ uẩn., FB
(5) vui thú trần tục: ảo tưởng không có gánh nặng ngũ uẩn, FB
(6) ai mang gánh nặng ngũ uẩn?, FB
Chế định và chân đế (phần 1), FB
Chế định và chân đế (phần 2), FB
(1) tại sao chấp nhận mang gánh nặng ngũ uẩn?, FB
⑵ tại sao mang gánh nặng ngũ uẩn (p2): ba loại ái (taṅhā), FB
⑶ tại sao mang gánh nặng ngũ uẩn (p3): ba loại ái (taṅhā), FB
Quăng bỏ gánh nặng ngũ uẩn nhờ minh sát trí & bốn thánh đạo (p1), FB
Bậc thánh nhập lưu quăng bỏ gánh nặng ngũ uẩn nhờ minh sát trí & bốn thánh đạo (p2), FB
Thánh đạo trí bậc cao – quăng bỏ gánh nặng ngũ uẩn nhờ minh sát trí & bốn thánh đạo (p3), FB
Gánh nặng ngũ uẩn nhìn từ ánh sáng của tứ thánh đế, FB
Những bài học rút ra từ kinh gánh nặng – bhāra sutta, FB
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB