Người tại gia có thể theo đuổi các dục lạc được không?
PHẬT ĐẠO = TRUNG ĐẠO: TRÁNH XA HAI CỰC ĐOAN ❶ ĐẮM SAY DỤC LẠC VÀ ❷ ÉP XÁC KHỔ HẠNH (P1)
–––––––––––––––
❶ ĐẮM SAY DỤC LẠC
Thính chúng (nghe kinh chuyển pháp luân) chỉ gồm năm vị Tỳ–kheo từ cõi người. Nhưng chư thiên và phạm thiên, theo bộ Milinda Pañhā (Bộ Mi Tiên Vấn Đáp), thì vô số kể.
Như vậy khi năm vị Tỳkheo cùng với Phạm thiên và chư thiên, những người được may mắn nghe bài Pháp đầu tiên này, đang cung kính chờ nghe với sự chăm chú thì Đức Thế Tôn bắt đầu giảng dạy bài Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka Sutta) với những lời:
“Dve me, Bhikkhave, antāpabbajitena na sevitabbā.”
“Này các Tỳ–kheo, người xuất gia đã từ bỏ đời sống thế tục không nên theo đuổi hai phần cực đoan sẽ được giải thích sau đây (Ime dve antā)”
Ở đây chữ antā, theo Chú giải giải thích, về mặt ngữ pháp có nghĩa là Koṭṭhāsa hay Bhāga hàm ý cổ phần hay phần.
Nhưng bởi vì giáo lý Trung Đạo sau đó được dạy trong bài pháp, nên việc dịch Antā là cực đoan hay thái cực là điều thích hợp.
Hơn nữa chữ “phần” ở đây cũng không nên xem như một phần của vật gì, mà chỉ như những phần nào nằm trong hai thái cực của sự vật. Vì thế chúng tôi dịch là hai phần.
Các bản Chú Giải của Tích Lan và Thái Lan cũng dịch nó là Lamaka Koṭṭhāsa với nghĩa ‘phần thấp hèn, hay phần xấu’, hơi giống như cách dịch cũ của Miến Điện: ‘pháp hành thấp hèn’.
Như vậy, điều đầu tiên cần phải lưu ý ở đây là
“Người xuất gia không nên theo đuổi hai phần cực đoan hay hai pháp hành cực đoan.”
Katame dve. Yo cāyaṃ Kāmesukhalikānuyogo — hino, gamo, pothujjaniko, anariyo, anatthasamhito. Yo cāyaṃ attakilamathaanuyogo — dukkho, anariyo, anatthasamhito.
THẾ NÀO LÀ HAI PHÁP HÀNH CỰC ĐOAN?
–––––––––––––––
⒜ Thích thú trong các dục trần, theo đuổi các dục lạc, cố gắng để tạo ra các dục lạc ấy và hưởng thụ chúng.
Cực đoan này là thấp hèn, là thói quen thông tục của hàng dân dã và tỉnh thành; được ấp ủ bởi hàng phàm phu; không trong sạch, đê tiện, vì thế các Bậc Thánh không theo đuổi; không hướng tới lợi ích (không liên hệ đến mục đích giải thoát).
Sự theo đuổi các dục lạc như vậy là một pháp hành cực đoan phải nên tránh.
Cảnh sắc, âm thanh, mùi, vị và sự xúc chạm khả ái tạo thành những dục trần đáng mong muốn.
Do thích thú trong những đối tượng ấy và do mong muốn được hưởng thụ chúng bằng thân hay tâm, người ta theo đuổi các dục lạc.
Pháp hành này là thấp hèn, dung tục, tầm thường, đê tiện và không lợi ích, tạo thành một cực đoan, bởi thế người xuất gia không nên theo đuổi.
⒝ Phần cực đoan khác hay pháp hành cực đoan khác liên quan đến những cố gắng tự hành hạ mình chỉ có thể dẫn đến khổ đau.
Kiêng ăn, kiêng mặc những gì mà bình thường mình quen dùng là một hình thức tự hành hạ mình và không đem lại lợi ích.
Pháp hành này không trong sạch cũng không cao thượng và không được các Bậc Thánh theo đuổi. Nó cũng không liên quan đến mục đích mà người xuất gia đang đi tìm.
Pháp hành tự hành xác như vậy, tạo thành một cực đoan khác, cũng phải nên tránh. Tránh hai cực đoan này, người ta đạt tới chánh đạo gọi là Trung Đạo.
TRUNG ĐẠO
–––––––––––––––
“Ete kho, Bhikkhave, ubho ante anupāgamma majjhimā paṭipadā Tathāgatena abhisambuddhā cakkhukaranī, ñāṇakaranī, upasamāya, abhiññāya, sambo–dhāya, nibbānāya saṃvattati.”
Này các Tỳ–kheo, tránh hai phần cực đoan này, Như Lai đã đạt đến Tri Kiến Thù Thắng về Trung Đạo, tạo thành mắt, tạo thành trí, đưa đến an tịnh (an tịnh các phiền não), thắng trí và Niết–bàn, đoạn tận mọi khổ đau.
Tránh xa hai cực đoan,
Loại bỏ các tà đạo,
Trung Đạo được đạt đến.
Đi trên Chánh Đạo này,
Giác ngộ, chứng Niết Bàn.
Trung Đạo hay còn gọi là Bát Chánh Đạo này tạo thành mắt, tạo thành trí như thế nào và nó đưa đến an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Niết–bàn ra sao sẽ được bàn đến ở phần sau.
Ở phần trước chúng tôi đã bàn về đoạn mở đầu của bài kinh. Phần này chúng tôi sẽ tiếp tục từ đó.
“Dve me Bhikkhave antā pabba jitena na sevitabbā.
“Này các Tỳ–kheo, người xuất gia không nên theo đuổi hai phần cực đoan này….
TẠI SAO NGƯỜI XUẤT GIA KHÔNG NÊN THEO ĐUỔI CHÚNG?
–––––––––––––––
Bởi vì mục đích chính của người xuất gia là để dứt mình ra khỏi những phiền não tham và sân.
Mục đích ấy không thể thành tựu bằng cách theo đuổi hai phần cực đoan này, vì chúng sẽ chỉ có khuynh hướng làm tăng thêm những tích luỹ của tham và sân mà thôi.
THẾ NÀO LÀ PHÁP HÀNH CỰC ĐOAN ĐẮM SAY DỤC LẠC?
–––––––––––––––
Thích thú trong các dục trần, theo đuổi các dục lạc, cố gắng để tạo ra các dục lạc ấy và hưởng thụ chúng. Cực đoan này là thấp hèn, là thói quen thông tục của hàng dân dã và tỉnh thành; được ấp ủ bởi hàng phàm phu; không trong sạch, đê tiện, vì thế các Bậc Thánh không theo đuổi; không lợi ích và không liên hệ đến mục đích (giải thoát).
Sự theo đuổi các dục lạc như vậy là một pháp hành cực đoan phải nên tránh.
Có năm dục trần khả ái: đó là sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, và sự xúc chạm êm ái; tóm lại tất cả những vật chất, hữu tình hay vô tình, mà con người thụ hưởng trên thế gian.
Thích thú trong một cảnh sắc tuồng như khả ái và hưởng thụ nó tạo thành một sự thực hành và theo đuổi nhục dục.
Ở đây, sắc trần không chỉ có nghĩa đơn thuần là một nguồn ánh sáng hay màu sắc tiếp xúc với con mắt, mà là đàn ông hay đàn bà hay tất cả vật thể tạo thành nguồn gốc hay khởi nguyên của cảnh sắc đó.
Tương tự, tất cả những nguồn gốc của âm thanh, của mùi, của vị, và của xúc chạm dù là đàn ông, đàn bà hay những vật gì khác đều tạo thành những dục trần (cảnh dục).
Về vị, ở đây không chỉ nói về đồ ăn, những loại trái cây và những món ăn ngon thôi mà cũng còn là đàn ông, đàn bà, và những người chuẩn bị món ăn và phục vụ chúng đều được sắp loại như vị trần hay cảnh vị.
Nghe một âm thanh dịu dàng, ngửi một mùi hương thơm ngào ngạt đều là hưởng dục cũng như hưởng một món ăn ngon, nằm trên một chiếc giường xa hoa, ấm cúng hoặc xúc chạm với một người khác phái vậy.
SỰ THOẢ MÃN NHỤC DỤC LÀ ĐÊ TIỆN VÀ DUNG TỤC
–––––––––––––––
Thích thú trong các dục lạc và hưởng thụ chúng được xem như một sự thực hành dung tục bởi vì một sự hưởng thụ như vậy sẽ tạo thành những ham muốn thấp hèn, vốn là sự bám víu đầy dục vọng.
Nó có khuynh hướng làm tăng thêm ngã mạn, nghĩ rằng không ai khác được ở địa vị hưởng những lạc thú như ta.
Và đồng thời nó còn làm cho người ta bị bức bách với những ý nghĩ tham lam, không muốn chia xẻ sự may mắn với người khác hay bị những ý nghĩ ganh ghét, đố kỵ, lo lắng áp đảo không muốn cho người khác có được những lạc thú tương tự như thế.
Nó làm nảy sinh ác ý đối với với người nghĩ rằng mình đang bị chống đối.
Hãnh diện với thành công và giàu có, người ta trở nên vô liêm sỉ, vô lương tâm, trơ trẽn và xem thường hành vi cư xử của mình, không còn biết sợ làm điều ác (vô tàm và vô quý).
Họ bắt đầu tự lừa dối mình với ấn tượng sai lầm về sự hạnh phúc và thịnh vượng.
Hạng phàm phu (puthujana) này cũng có thể đi đến chỗ chấp giữ tà kiến về một linh hồn hay ‘tự ngã’ để tán thành sự không tin nhân quả của mình.
Hậu quả của sự thích thú trong các dục lạc, và hưởng thụ các dục lạc là như vậy, vì thế chúng được xem như thấp hèn và đê tiện.
Hơn nữa, theo đuổi các dục lạc là pháp hành quen thuộc của những hình thái chúng sanh thấp kém như súc sanh, ngạ quỷ…
Trong khi Tỳ–kheo và Sa–môn thì thuộc về những tầng hiện hữu cao hơn không nên hạ mình xuống ngang hàng với các hình thái sống thấp thỏi trong sự thụ hưởng những nhục dục đê tiện.
Theo đuổi các dục lạc không nằm trong phạm vi của một người đã lìa bỏ đời sống thế tục. Chỉ có hàng dân dã, những người xem các dục lạc như những thuộc tính cao nhất của hạnh phúc, với họ càng nhiều khoái lạc, càng nhiều hạnh phúc, mới quan tâm đến nó.
Thời xa xưa, chỉ những người có chức quyền và giàu có mới tham dự vào việc theo đuổi các dục lạc.
Những cuộc chiến tranh nổ ra, và những cuộc xâm lược hung hãn cũng chỉ vì muốn thoả mãn các khoái lạc giác quan.
Thời đại tân tiến ngày nay cũng vậy, những cuộc xâm lược tương tự vẫn xảy ra ở một số vùng, cũng vì mục đích (thoả mãn) ấy.
Nhưng ngày nay không chỉ những nhà cai trị và người giàu đi tìm các dục lạc; người nghèo cũng gắng sức chạy theo những vật chất và khoái lạc thế gian.
Thực tế, ngay khi vừa tới tuổi thành niên, bản năng cho sự thoả mãn việc đôi lứa và nhục dục đã tự bộc lộ.
Đối với những người cư sĩ không biết đến Phật Pháp, sự thoả mãn những khát vọng giác quan quả thực có vẻ như là tột đỉnh của hạnh phúc rồi.
DIṬṬHADHAMMA NIBBĀNA VĀDA
Ngay cả trước thời Đức Phật cũng đã có những người tin rằng hạnh phúc thiên giới có thể thụ hưởng ngay trong kiếp sống này (Diṭṭhadhamma Nibbāna Vāda).
Theo họ, dục lạc quả thật là hạnh phúc; không gì có thể vượt qua nó. Và lạc thú đó phải được tận hưởng trong kiếp sống này.
Nếu để cho những khoảnh khắc hưởng thụ quý giá ấy trôi qua, và chờ đợi hạnh phúc trong một kiếp sống tương lai nào đó, vốn không hiện hữu, sẽ là một điều ngu ngốc.
Thời gian để thoả mãn trọn vẹn những dục lạc là ngay bây giờ, trong kiếp hiện tại này. Đây là một trong 62 tà kiến (micchādiṭṭhi) Đức Phật giải thích trong Kinh Phạm Võng của Trường Bộ Kinh.
Như vậy việc hưởng thụ các dục lạc là mối bận tâm của hàng dân dã, chứ không phải là mối quan tâm của các Sa–môn và Tỳ–kheo.
Đối với người xuất gia theo đuổi khoái lạc giác quan cũng có nghĩa là đang quay trở lại với đời sống thế tục mà mình đã từ bỏ.
Sở dĩ người đời tỏ lòng kính trọng hết mực đối với bực xuất gia là vì họ tin rằng các vị đang sống một đời sống thánh thiện, không bị quấy động bởi những điên cuồng của thế gian và sự cám dỗ của người khác phái.
Họ cúng dường những món ăn ngon nhất và những y phục tốt nhất cho các vị Sa–môn, còn bản thân họ thì nhịn ăn nhịn mặc, luôn cả hy sinh những nhu cầu cần thiết của người thân và gia đình họ.
Vì thế, sẽ là không thích hợp cho các vị Tỳ–kheo để theo đuổi các khoái lạc thế gian như những người tại gia, trong khi đang sống nhờ vào lòng từ thiện của mọi người.
Hơn nữa, các vị Tỳ–kheo từ bỏ thế gian với ước nguyện thực hành để giải thoát khỏi những thống khổ cố hữu trong vòng tử sanh luân hồi và để chứng ngộ Niết–bàn. Và hiển nhiên rằng những lý tưởng này sẽ không thể đạt đến nếu vị Tỳ–kheo cứ theo đuổi các dục lạc y như cách của những người gia chủ.
Vì thế, là người xuất gia thì không nên đắm chìm trong các dục lạc.
MỘT PHÁP HÀNH THẤP HÈN VÀ TẦM THƯỜNG
–––––––––––––––
Đa số người đời là hàng phàm phu bình thường chỉ biết lao đầu tìm kiếm kế sinh nhai và hưởng thụ dục lạc.
Chỉ một ít người, có thể vươn lên trên đám đông này, để thấy Pháp (Dhamma) và sống một cuộc đời thánh thiện. Không phải để họ đắm chìm trong những khoái lạc thế gian, thô thiển, vốn là mối quan tâm chính của tầng lớp chúng sanh thấp thỏi.
KHÔNG PHẢI LÀ PHÁP HÀNH CỦA CÁC BẬC THÁNH
–––––––––––––––
Hưởng thụ những khoái lạc thế gian không phải là pháp hành của các Bậc Thánh (Ariyas).
Ở đây, người ta có thể hỏi tại sao các Bậc Thánh giống như bà Visākhā, ông Cấpcô–độc (Anāthapiṇṇdika) và Vua trời Đế Thích (Sakka), những người đã đạt đến tầng thánh thứ nhất, Tu–đà–hoàn (Sotāpanna), còn đắm mê trong sự theo đuổi các dục lạc?
Về vấn đề này, cần phải hiểu rằng: trong Thánh Đạo Tu–đà–hoàn, dục và tham vẫn chưa được vượt qua hoàn toàn, hay nói khác hơn trong họ vẫn còn nấn ná những lạc tưởng – Sukha saññā (tưởng mới chớm về sự dễ chịu của các dục lạc).
Điểm này được minh hoạ trong Tăng Chi Kinh (Aṅguttara) với ví dụ về một người được xem là khó tính trong những thói quen sạch sẽ, song để tránh bị một con voi dữ tấn công, cũng phải tìm chỗ núp trong một nơi đầy phân cứt dơ dáy.
Thói quen thô thiển, dơ bẩn, và đê tiện này người xuất gia phải nên tránh.
KHÔNG HƯỚNG TỚI LỢI ÍCH (ANATTHA SAṂHITO)
–––––––––––––––
Pháp hành này không hướng tới lợi ích hay hạnh phúc của con người.
Theo quan niệm thông thường, kiếm tiền và làm giàu, thiết lập một cuộc sống gia đình với những kẻ hầu người hạ và một vòng vây của bè bạn, hay tóm lại, phấn đấu để có được sự thành công và tài sản trong cuộc đời này, đích thực là đang làm việc vì lợi ích hay hạnh phúc của bản thân mình.
Tuy nhiên, thực tình mà nói sự thành công và tài sản thế gian ấy không có ý nghĩa gì đối với hạnh phúc của con người.
Lợi ích đích thực của con người nằm ở chỗ làm thế nào để tìm cách vượt qua già, bệnh, chết và đạt đến sự giải thoát khỏi mọi hình thức của khổ.
Cách duy nhất để thoát khỏi mọi hình thức của khổ là qua việc tu tập giới (sīla), định (samādhi) và tuệ (paññā). Chỉ có đi tìm Giới, Định và Tuệ này mới đem lại lợi ích đích thực cho con người mà thôi.
Theo đuổi các dục lạc không thể thắng phục được già, bệnh, chết và các hình thức khác của khổ. Nó chỉ đưa đưa con người đến chỗ phạm giới, như tà dâm chẳng hạn.
Tìm kiếm những thú vui trần tục qua việc sát sanh, trộm cắp hay lừa đảo cũng có nghĩa là phạm giới. Nói gì đến những hành động bằng thân, chỉ đơn thuần nghĩ đến sự hưởng thụ các dục lạc cũng đã ngăn sự phát triển định tâm và trí tuệ, và như vậy tạo thành một chướng ngại cho sự chứng ngộ Niết Bàn, diệt tận mọi khổ đau rồi.
Không giữ giới là một bước chắc chắn đưa đến bốn cõi khổ (địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, và A–tu–la).
Tuy nhiên, cần lưu ý là chỉ giữ một mình giới không tu tập cùng với định và tuệ sẽ không đưa đến Niết–Bàn. Giữ giới chỉ đưa đến tái sanh trong các cõi an vui, tuy nhiên ở các cõi ấy người ta vẫn phải gặp những loại khổ như già, bệnh, và chết.
Người xuất gia, sau khi từ bỏ thế gian, với mục đích đã nguyện là thành tựu Niết–Bàn, ở đây mọi khổ đau chấm dứt, không nên quan tâm đến việc theo đuổi các dục lạc, vốn chỉ cản trở sự phát triển giới, định, và tuệ.
Tóm lại, hưởng thụ các dục lạc là thấp hèn và dung tục, là mối bận tâm của của hàng phàm phu kém trí, không trong sạch, đê tiện, không được thực hành bởi các Bậc Thánh.
Nó ảnh hưởng bất lợi đến việc phát triển giới, định, tuệ và như vậy đi ngược lại lợi ích đích thực của những ai có ý định thành tựu Niết–Bàn – cái không già, không bệnh, và không chết (bất tử).
NGƯỜI TẠI GIA CÓ THỂ THEO ĐUỔI CÁC DỤC LẠC ĐƯỢC KHÔNG?
–––––––––––––––
Kinh chỉ nói rằng “người xuất gia không nên theo đuổi các dục lạc.” Bởi thế, vấn đề đặt ra là những gia chủ bình thường vẫn còn sống giữa môi trường thế tục có thể tự do theo đuổi các dục lạc mà không có bất kỳ hạn chế nào được không?
Vì sự thoả mãn các khoái lạc giác quan là mối bận tâm của người bình thường, nên sẽ là vô nghĩa khi bắt họ phải làm như vậy.
Nhưng đối với những người tại gia có ý định thực hành Thánh Pháp, nên thận trọng tránh những khoái lạc này đến mức cần thiết cho sự thực hành.
Giữ bát giới đòi hỏi phải tránh phạm vào những tội liên quan đến nhục dục. Cũng vậy, việc sở hữu những vật chất thế gian không nên tìm kiếm bằng cách sát sanh, trộm cắp và lừa đảo.
BỐN LOẠI ĐAM MÊ HƯỞNG THỤ THẾ TỤC
–––––––––––––––
Trong Kinh Pāsādika của Trường Bộ, Đức Phật có nói đến bốn loại đam mê trong sự hưởng thụ thế tục như sau:
① Này Cunda, ở đời này có những người ngu si cổ suý sự làm giàu bằng việc sát sanh của họ – giết trâu bò, lợn, gà, cá…
Việc thực hành này tạo thành hình thức đam mê hưởng thụ thế tục thứ nhất.
② Trộm cắp, cướp bóc và bán giá cắt cổ tạo thành hình thức đam mê hưởng thụ thế tục thứ hai.
③ Những phương tiện kiếm sống bằng cách lừa đảo tạo thành thứ ba.
④ Hình thức thứ tư của sự đam mê này là tất cả những phương tiện làm giàu khác ngoài ba loại kể trên.
Kinh nói rằng các vị Tỳ–kheo đệ tử Phật thoát khỏi những đam mê này.
Đối với người cư sĩ đang giữ tám giới hay mười giới phải duy trì phạm hạnh (không hành dâm) và tránh ăn sau ngọ, ca múa, vì đây là những hình thức của dục lạc.
Khi một người chọn hành thiền, họ phải dứt bỏ các loại hưởng thụ dục dạc giống như các vị Tỳ–kheo đã lìa xa đời sống thế tục vậy, vì chúng có khuynh hướng ngăn cản sự phát triển giới, định và tuệ. Bởi thế, một người hành thiền, dù là người tại gia, cũng không nên đam mê trong những hưởng thụ thế tục.
Những điều này đủ để được xem là một hình thức của cực đoan đam mê trong sự hưởng thụ thế tục.
(Còn tiếp)
– Hết trích dẫn –
Nguồn trích dẫn: Giảng Giải Kinh Chuyển Pháp Luân – Đại trưởng lão Thiền sư Mahasi Sayadaw.
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB