Chánh niệm đạo là tứ niệm xứ thuộc nhóm định đạo trong bát thánh đạo (trung đạo / phật đạo) (p2)
CHÁNH NIỆM ĐẠO LÀ TỨ NIỆM XỨ THUỘC NHÓM ĐỊNH ĐẠO TRONG BÁT THÁNH ĐẠO (TRUNG ĐẠO / PHẬT ĐẠO) (P2)
–––––––––––––––
② CHÁNH NIỆM ĐẠO
‘Này các Tỷ kheo, thế nào là Chánh niệm?
⑴ Trong Giáo Pháp này, vị Tỷ kheo sống quán trên thân (sắc uẩn), vốn vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh, nhận ra nó chỉ là thân hay sắc uẩn vô thường, khổ, vô ngã, bất tịnh.
Nhận thức được như vậy, vị ấy nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu đối với thế gian của năm uẩn; tham ưu ấy có thể sẽ sanh nếu không hiểu biết đúng như vậy.
⑵ Vị ấy quán trên các cảm thọ chỉ là thọ, vô thường, khổ, vô ngã, ….
⑶ Vị ấy sống quán trên tâm, ghi nhận nó chỉ như một tiến trình của tư duy và nhận thức, vô thường, khổ, và vô ngã,…
⑷ Vị ấy sống quán trên các pháp, ghi nhận nó chỉ như hiện tượng thấy, nghe, v.v…, vô thường, khổ, vô ngã,…
Nhận thức được như vậy, vị ấy nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu đối với thế gian của các cảm thọ; thế gian của tâm, thế gian của các pháp, nói khác hơn thế gian của năm uẩn.
Này các Tỳ Kheo, niệm để hiểu biết đúng như vậy được gọi là Chánh Niệm.’
Đây là những lời dạy kỹ lưỡng của Đức Phật về Chánh Niệm Đạo.
DÙ BÁT THÁNH ĐẠO CÓ ĐƯỢC THUYẾT GIẢNG CHI TIẾT HAY
KHÔNG
–––––––––––––––
Trong Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka Sutta), như hiện giờ chúng ta đã thấy, Bát Thánh Đạo chỉ được đề cập dưới hình thức một tiêu đề.
Khi bài Kinh Chuyển Pháp Luân này lần đầu tiên được Đức Phật thuyết, liệu Tôn giả Kiều–trần–như cùng với các vị Phạm Thiên và chư thiên đắc thắng trí lúc đó, có hiểu rằng bằng những từ đơn giản của tiêu đề “chánh niệm” Đức Phật muốn nói tới ‘tứ niệm xứ’ qua đó bản chất của thân, thọ, tâm, và pháp được tuệ tri một cách rõ ràng hay không?
Liệu các vị có hiểu rằng “ghi nhận mọi thân hành, mọi cảm thọ, mọi danh pháp (hiện tượng tâm), mọi tư duy trên các pháp trần có tạo thành chánh niệm hay không?”
Và rằng “Chánh Niệm này phải được tu tập bằng cách ghi nhận mọi hiện tượng của thân và tâm (danh&sắc) hay không?”
Đây là một điểm có thể gây tranh luận cần phải được cân nhắc. Vì trừ phi các vị đã có một sự hiểu biết rõ ràng về nó, bằng không các vị sẽ không thể phát triển chánh niệm được.
Và không có chánh niệm, việc chứng đắc thắng trí thuộc thánh đạo và thánh quả là một điều không thể xảy ra.
Ở đây hai sự cân nhắc là có thể.
⑴ Thứ nhất, Tôn giả Kiều–trần–như và các vị Phạm Thiên, chư thiên là những người có những Ba–la–mật phi thường đã chín mùi, chắc chắn sẽ đắc giải thoát tối hậu, và chỉ cần nghe những từ “chánh niệm”, lập tức hiểu được rằng họ cần phải ghi nhận mọi thân hành, mọi cảm thọ…, và phát triển chánh niệm đạo. Do đó họ đã làm như vậy và đắc thắng trí theo cách này.
⑵ Sự cân nhắc thứ hai là: khi thuyết bài pháp đầu tiên này, để thính chúng của ngài hiểu được một cách rõ ràng, Đức Thế Tôn đã giải thích tỉ mỉ những tiêu đề của Bát Thánh Đạo và tứ niệm xứ. Nhưng vào lúc Kết Tập Tam Tạng lần Thứ Nhất, khi trùng tuyên Kinh Chuyển Pháp Luân (Dhammacakka Sutta), Bát Thánh Đạo như một thành phần của Tứ Thánh Đế đã được cô đọng chỉ trong hình thức của một tiêu đề.
Như vậy phải có những giải thích chi tiết về chúng riêng ở các bản kinh khác được trùng tuyên trong hình thức cô đọng tại cuộc Kết Tập lần Thứ Nhất.
Câu trả lời là có. Kinh Niệm Xứ (Satipatthāna Sutta) của Trung Bộ là một sự cô đọng của bài Đại Kinh Niệm Xứ (Mahāsatipatthāna) của Trường bộ mà chỉ phần đầu của nó được trùng tuyên trong kỳ Kết Tập lần Thứ Nhất.
Nhưng hiện nay trong phương thức tiến hành ở cuộc Kết Tập lần Thứ Sáu, những phần bỏ sót đã được lấp đầy và ghi chép lại, mặc dù những phần mới thêm của kinh không được đề cập trong chú giải Trung Bộ.
Tương tự cũng có một số những bài kinh dài thuộc các Nikāya khác đã được ghi lại trong hình thức cô đọng ở Tiểu Bộ Kinh (Khuddaka Nikāya).
Như vậy ở đây chúng ta có thể rút ra một điều là sự trình bày chi tiết về chánh niệm mà Đức Phật đưa ra ở lần thuyết bài kinh này đã được bỏ qua nên bài kinh chỉ được trùng tuyên một cách súc tích trong kỳ Kết Tập lần Thứ Nhất.
Vì thế vấn đề ý nghĩa thâm sâu và chi tiết của Bát Thánh Đạo được hiểu như thế nào từ tiêu đề đơn giản của nó không cần thiết phải đặt ra nữa.
Ngày nay, tứ niệm xứ mà tôi vừa nói đã được nhiều người biết rõ. Và nhất là có bài Đại Kinh Niệm Xứ cung cấp những giải thích kỹ lưỡng cho tiêu đề đã được tóm tắt về Bát Thánh Đạo. Ngoài ra chúng ta còn có những bản chú giải về bài kinh này.
Tuy vậy, bất chấp những gì đã có, chỉ một ít người là có thể biết cách làm thế nào để phát triển chánh niệm đạo.
Do đó theo tôi nghĩ Đức Thế Tôn thực sự đã trình bày đầy đủ chi tiết về đạo (Bát Thánh Đạo) khi ngài thuyết bài pháp đầu tiên, Chuyển Pháp Luân, này vì lợi ích của số đông vậy.
Ở đây phải lưu ý rằng chánh niệm đạo là tứ niệm xứ.
Đạo này phải được tu tập như thế nào đã được nói rõ trong bài kinh Pāḷi vừa dẫn.
Bài kinh Pāḷi này chính xác giống như đoạn giới thiệu tóm tắt cho bài Kinh Đại Niệm Xứ (Mahā Satipatthāna Sutta). Nếu thấy sự giải thích quá cô đọng này không đủ để hiểu rõ, bạn có thể nhờ đến sự nghiên cứu sâu xa hơn về bài Đại Kinh Niệm Xứ.
Theo Đại Kinh Niệm Xứ, quán thân có thể được thực hiện theo hai cách: hoặc bằng cách quán hơi thở, ānāpāna, đó là theo dõi hơi thở vô và hơi thở ra, hoặc bằng cách quán ba mươi hai thành phần cấu tạo của thân như tóc, lông, móng, răng, da…
Chú giải nói rằng hai phần này của Kinh Niệm Xứ là những đề mục thiền có thể tạo ra định an chỉ (appanā).
Mười chín phần còn lại của Kinh Niệm Xứ là những đề mục thiền chỉ tạo ra cận định (upacāra Kammaṭṭhāna).
Thiền minh sát (vipassanā kamaṭṭhāna) cũng chỉ tạo ra cận định.
LÀM THẾ NÀO ĐỂ TẠO RA CHÁNH NIỆM MINH SÁT (VIPASSANĀ
SATI)
–––––––––––––––
Do đó, chỉ cần chọn bất kỳ một đề mục thiền nào đã đề cập trong 19 phần còn lại để phát triển Chánh Niệm Minh Sát Đạo là đủ.
Theo phần ‘Tác Ý Các Giới’, Dhātumanasikāra pabba, người hành thiền cần phải ghi nhận Bốn Đại Chủng (Tứ Đại) cũng như ghi nhận khi nó sanh khởi và thể hiện.
Thanh Tịnh Đạo nói rõ rằng khi đã vượt qua các triền cái nhờ quán trên Tứ Đại, cận định phát sanh. Cận định này, như đã giải thích trong Phụ Chú Giải của Thánh Tịnh Đạo, không gần với bất cứ một An Chỉ Định (Appanā Samādhi) nào và như vậy nó không phải là cận định thực thụ.
Tuy nhiên, vì nó hơi giống cận định trong khả năng vượt qua các triền cái và tạo ra đặc tính của nó nên nó được khoác cho cái tên cận định nhờ sự giống hệt về khả năng của nó mà thôi.
Ở đây, vì mục đích của thiền minh sát, chúng tôi dùng từ Sát–Na Định Minh Sát (Vipassanā Khaṇika Samādhi) để mô tả loại (cận) định nói trên.
Một số người cảm thấy khó hiểu cách dùng này và đã chỉ trích việc sử dụng nó.
Họ cho rằng không thể phát triển Minh Sát bằng sát–na định. Họ lý luận rằng nếu điều này là khả dĩ, thì những tăng sinh đang nghiên cứu kinh điển cũng có được minh sát trí.
Tất nhiên, chúng tôi có thể chấp nhận quan điểm này nếu sự tập trung hay định của những học nhân ấy đủ mạnh để loại trừ những triền cái và đồng thời nếu họ đang quán trên hiện tượng danh và sắc ở sát na sanh của chúng hợp theo Kinh Đại Niệm Xứ.
Nhưng một điều hoàn toàn rõ ràng là định dự phần trong sự đọc tụng và suy ngẫm trên kinh điển mà những học nhân ấy đã học thuộc lòng không đủ mạnh để vượt qua các triền cái và họ cũng không phải đang ghi nhận hiện tượng danh và sắc ở sátna sanh của chúng.
Do đó, những người chỉ trích chúng tôi hiển nhiên đã không quen với việc thực hành minh sát đúng đắn vậy.
Trong Thanh Tịnh Đạo, sát na định minh sát được đề cập như Khaṇika cittakaggatā (sự nhất tâm tong một sát–na); và trong phụ chú giải của Thanh Tịnh Đạo thì nó được nói đến như Khanamattahitiko samādhi,…
Như vậy dựa trên thẩm quyền của Chú giải và Phụ chú giải, chúng tôi đã dùng từ Sát Na Định Minh Sát (Vipassanā Khaṇika Samādhi) để mô tả loại định hơi giống như Cận Định này.
Một khi những giải thích này được hiểu rõ, sự lầm lẫn chắc chắn sẽ chấm dứt trong tâm của những người chỉ trích chúng tôi.
Như đã nói ở trên, nếu quán sắc được thực hoàn tất bằng cách ghi nhận các sắc khi chúng sanh khởi, theo như các phần Quán Các Oai Nghi Của Thân (Iriyapatha), Quán Sự Tỉnh Giác (Sampajjaññā), Tác ý Các Giới (Dhatumanasikāra), thì cận định mà chúng ta gọi là sát na định minh sát được phát triển.
Và cùng với định này, Minh Sát Trí (Vipassanā Ñāṇa), còn gọi là Chánh Kiến Minh Sát (Vipassanā Sammādiṭṭhi), cũng được phát triển.
Lúc đó những pháp này: Chánh Niệm Đạo (Sammā Sati Magga), Chánh Định Đạo (Sammā Samādhi) và Chánh Kiến Đạo (Sammā Diṭṭhi Magga) được gọi cách khác là
Thân Quán Niệm Xứ (kayanupassanā satipatthāna).
Liên quan đến lời tuyên bố cho rằng ‘Tác Ý Các Giới’ là một đề mục thiền cho Cận Định, chúng tôi có thẩm quyền của Thanh Tịnh Đạo vốn đề cập đến đề mục thiền này như Catudhātuvavatthāna (Xác Định Bốn Giới hay Xác Định Tứ Đại).
Và chắc chắn sự quả quyết của chúng tôi cho rằng quán các oai nghi của thân và quán sự tỉnh giác chỉ đưa đến Cận Định cũng sẽ được tán thành, bởi vì chú giải bài Kinh Niệm Xứ xác nhận rõ ràng chúng là những đề mục thiền cho Cận
Định.
Ngoài ra, theo phần Quán Thọ…thì niệm thọ, niệm tâm và niệm pháp vào sát na sanh khởi của chúng sẽ dẫn đến sự phát triển của Cận Định và Minh Sát Trí.
Bởi thế, ngay đầu chương nói về Kiến Tịnh, Thanh Tịnh Đạo đã đưa ra một sự mô tả về cách người theo cỗ xe thuần quán bắt đầu thực hành thẳng vào quán Tứ Đại theo sau bởi sự phân biệt mười tám giới, mười hai xứ, năm uẩn và danh–sắc, như thế nào.
Điều này phù hợp với những lời dạy của Đức Phật trong Kinh Đại Niệm Xứ.
Đến đây, sau khi đã nghe những lời giải thích và cân nhắc ở trên, có lẽ quý vị đã hiểu được cách làm thế nào để phát triển chánh niệm đạo đúng theo tinh thần của những bài kinh do Đức Thế Tôn thuyết giảng.
Và sau khi đã hiểu như vậy, có lẽ quý vị cũng có thể xác định được là chỉ đọc tụng và suy xét trên những gì mình đã học từ kinh điển thay vì chánh niệm ghi nhận thân, thọ, tâm, pháp ở sát na chúng khởi sanh, có dẫn đến chánh niệm đạo đích thực hay không.
Và một điều rõ ràng là không có chánh niệm đạo thích hợp, thì chánh kiến minh sát đạo, cũng không thể nào được thiết lập.
MINH SÁT TRÍ CHỈ PHÁT SANH DO CHÁNH NIỆM GHI NHẬN
–––––––––––––––
Chúng tôi sẽ trích dẫn ra đây một đoạn từ chú giải Kinh Đại Niệm Xứ để củng cố thêm cho lý lẽ của chúng tôi:
Yasama panakaya vedanā citta–dhammesu kiñci dhammam anamdsitava bhāvanā nāma natti. Tasamā tepi imināva maggena sokaparideva samatikkhantati veditabba.
(Không thể có sự phát triển của minh sát trí, trí thuộc Thánh Đạo, mà không quán bất kỳ đề mục thiền nào trong thân, thọ, tâm, và pháp.)
Do đó, phải nhận ra rằng Tể Tướng Santati và Trường Lão Ni Patācārā đã vượt qua được sầu bi của họ do nhờ thực hành tứ niệm xứ đạo.
[Santati và Patācārā Therī, những người được nói là đắc thắng trí thuộc Thánh Đạo và Thánh Quả trong khi nghe một thời pháp.]
KHÔNG CHÁNH NIỆM KHÔNG TRÍ TUỆ
–––––––––––––––
Về điểm này chú giải rất minh bạch. Không thể chỉ nghe pháp mà phải quán một đề mục nào đó trong thân, thọ, tâm, pháp mới giúp họ đạt đến thắng trí.
Không quán bất kỳ một đề mục thiền nào trong tứ niệm xứ, việc phát triển Minh Sát Trí (Vipassanā Ñāṇa) hay trí thuộc Thánh Đạo và Thánh Quả là điều không thể xảy ra.
Do đó, rõ ràng là nếu chỉ học những định nghĩa và phân loại của Danh và Sắc rồi suy xét trên đó mà không thực sự ghi nhận sự sanh khởi của chúng trong thân, sẽ không bao giờ phát triển được chánh kiến đạo đúng đắn còn gọi là minh sát trí, hay trí thuộc Thánh Đạo.
Ở đây một mình chánh niệm sẽ không dẫn đến cứu cánh mong muốn.
Sau khi đã thành tựu chánh niệm, chính nhờ tuệ tri chân lý đúng như thực mà người hành thiền mới đạt đến cứu cánh mong muốn.
Do đó trong phần giới thiệu tóm tắt bài Kinh Niệm Xứ vừa dẫn ở trên, kinh chỉ nói là phải có ‘nhiệt tâm chánh niệm cùng với trí tuệ tỉnh giác.’
Tuy nhiên, khi diễn giải phần giới thiệu tóm tắt này những từ ‘pajānāti’ – biết (tuệ tri) theo những cách khác nhau, hay
‘samudayavayadhammānupassī’ – biết sanh và diệt– đã được dùng.
Vì thế, chúng tôi đã tóm tắt chánh niệm đạo này lại như sau: để phát triển chánh niệm, phải có ⑴ nhiệt tâm, ⑵ niệm, cùng với ⑶ sự tỉnh giác:
1. Tỉnh giác về những chuyển động của thân.
2. Tỉnh giác về mọi hoạt động của tâm
3. Tỉnh giác về mọi cảm thọ: lạc, khổ và trung tính (nói chung bất cứ thọ nào thể hiện).
4. Tỉnh giác về mọi pháp khi nó xuất hiện.
Sở dĩ chúng tôi phải mất khá nhiều thời gian để bàn chi tiết về chánh niệm đạo này là vì nó rất quan trọng đối với sự hiểu biết của nhiều người.
(Còn tiếp)
– Hết trích dẫn –
Nguồn trích dẫn: Giảng Giải Kinh Chuyển Pháp Luân – Đại trưởng lão Thiền sư Mahasi Sayadaw.
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB