Hành giả tu tập 7 giác chi không thể không biết điều này
HÀNH GIẢ TU TẬP 7 GIÁC CHI KHÔNG THỂ KHÔNG BIẾT ĐIỀU NÀY
———••» ֎ «••———
🌱 Bảy Giác Chi (Bojjhaṅga) – Phần 2 🌱
Bảy giác chi là:
① Niệm giác chi (saṭi sambojjhaṅga).
② Trạch pháp giác chi (dhammavicaya sambojjhaṅga).
③ Tấn giác chi (vīriya sambojjhaṅga).
④ Hỷ giác chi (pīṭi sambojjhaṅga).
⑤ Tịnh giác chi (passaddhi sambojjhaṅga).
⑥ Ðịnh giác chi (samādhi sambojjhaṅga).
⑦ Xả giác chi (upekkhā sambojjhaṅga).
Hành giả muốn tu tập bảy giác chi, cần phải biết được nhân sanh của nó.
Nhân sanh khởi của giác chi hoặc làm cho giác chi tăng trưởng lớn mạnh có điểm chung là: Tác ý đúng phương pháp. Và A–la–hán Đạo là nhân làm cho giác chi sung mãn.
Riêng mỗi giác chi đều có nhân sanh, nhân làm cho sung mãn khác nhau, tùy theo đặc tính cùng công năng của mỗi giác chi.
____
Tác ý: Manasikāra = Manasi + kāra. Theo nghĩa từng chữ là: “việc làm trong tâm”.
Phận sự chính của tác ý là hướng tâm cùng các sở hữu đồng sanh về một đối tượng, nó giống như bánh lái của chiếc tàu, tâm không có manasikāra như tàu không có bánh lái.
Nếu như nó hướng dẫn tâm hướng về điều thiện gọi là yoniso manasikāra: tác ý đúng, tác ý chân chánh. Nếu nó hướng dẫn tâm về điều xấu, ác, ô nhiễm, gọi là tác ý không đúng, tác ý sai lệch (ayoniso manasikāra). Chính tác ý không đúng là nhân cơ bản, là vật thực cần thiết cho năm pháp chướng ngại sanh lên và tăng trưởng.
Vì thế, trong Tương Ưng Kinh, Ðức Thế Tôn có dạy rằng:
“Này các Tỳ–khưu! Do phi như lý tác ý (ayoniso manasikāra) tham dục chưa sanh được sanh lên, đã sanh khởi đi đến tăng trưởng, quảng đại, sân… hôn trầm, thụy miên… trạo hối… nghi hoặc chưa sanh được sanh lên, đã sanh khởi đi đến tăng trưởng, quảng đại.
Và niệm giác chi chưa sanh không sanh, niệm giác chi đã sanh bị đoạn diệt, trạch pháp giác chi… tấn giác chi… hỷ giác chi… tịnh giác chi… định giác chi… xả giác chi chưa sanh không sanh, xả giác chi đã sanh bị đoạn diệt.
Và này chư Tỳ khưu! Do như lý tác ý (yoniso manasikāra) dục tham chưa sanh không sanh khởi, dục tham đang sanh bị đoạn diệt, sân… hôn trầm, thụy miên… trạo hối… nghi hoặc chưa sanh không sanh khởi, nghi hoặc đang sanh bị đoạn diệt.
Này chư Tỳ–khưu! Do như lý tác ý, niệm giác chi chưa sanh được sanh khởi, niệm giác chi đã sanh khởi nhờ tu tập đi đến viên mãn…”
———••» ֎ «••———
Ðoạn kinh trên cho chúng ta thấy sự đối chiếu của hai loại tác ý, cùng kết quả sanh lên từ chúng.
Tác ý đúng đưa đến sanh khởi và làm tăng trưởng bảy giác chi đồng thời hủy diệt năm pháp chướng ngại. Tác ý không đúng dẫn đến năm pháp chướng ngại sanh khởi và tăng trưởng đồng thời hủy diệt bảy giác chi. Các vị Luận Sư tạng Thắng Pháp nói rằng:
Ở khía cạnh khác, manasikāra có nghĩa là “sự chú ý”, nó ví như người đánh xe đang điều khiển cỗ xe song mã hay cỗ xe tứ mã, người đánh xe chú đến những con ngựa phi sãi, điều khiển chúng chạy song song, giúp cho cỗ xe luôn vững vàng.
Trên phương diện tu tập, tác ý và niệm gần như gắn liền nhau, tức là “chú ý ghi nhận”. Giống như người thợ cưa, luôn luôn chú ý đến lưỡi cưa, khi đang cưa khúc gỗ qua lằn mực chuẩn định, khi lưỡi cưa sắp đi lệch hay đã lệch lằn mực, y điều chỉnh lưỡi cưa trở lại lằn mực ngay. Nếu y không có sự chú ý (tức là tác ý không đúng) lưỡi cưa sẽ đi sai lầm, khiến khúc gỗ kia trở thành vô dụng, y mất đi lợi ích.
Nhưng tác ý như thế nào gọi là tác ý đúng? Tức là, hướng tâm như thế nào là hướng tâm đúng? Là hướng tâm đến Thiện Pháp, hướng tâm đến xa lánh ác pháp, hướng tâm đến không đắm nhiễm (virāga) trong các trần cảnh, hướng tâm đến từ bỏ dục lạc, hướng tâm đến trừ diệt nhân sanh khổ (là ái dục).
Theo sớ giải tạng Abhidhamma, các Ngài Luận Sư giải về sở hữu tác ý (manasikāra ceṭasika) như sau:
Āramaṇaṃ manasi paṭipādāyaṭī’ṭi = Āramaṇapādako:
Làm thành cảnh cho tâm, gọi là tác ý thành cảnh.
Vậy thì tác ý đúng về cảnh ra sao? Tức là, tâm phải lấy chi làm đối tượng? Tâm lấy pháp làm đối tượng (làm cảnh).
Ở đây, chính Pháp thiện làm cảnh cho tâm, tâm hướng về Pháp thiện, lấy Pháp thiện làm đối tượng, tâm sẽ trở nên tốt đẹp. Ðức Phật có dạy rằng:
“Này chư Tỳ–khưu! Trong khi vị Thánh đệ tử lấy Pháp làm đối tượng (aṭṭhiṃ kaṭvā), tập trung tất cả tâm ý (sabbaceṭaso sammannāhariṭvā), lắng nghe Pháp, trong khi ấy năm Pháp chướng ngại không có trong vị ấy và bảy giác chi trong khi ấy nhờ tu tập, đi đến viên mãn”. (Tương Ưng Kinh).
———••» ֎ «••———
Trong lãnh vực tu tập để dẫn đến giác ngộ, xuất khỏi luân hồi. Giai đoạn đầu của sự tu tập, pháp chướng ngại vẫn xuất hiện, vì thế, giữa hai pháp: chướng ngại và giác chi có sự đối nghịch nhau. Nên khi Ðức Thế Tôn thuyết giảng về Pháp giác chi, Ngài đề cập đến năm pháp chướng ngại.
Khi nói về năm pháp chướng ngại, Đức Phật dạy rằng:
“Này chư Tỳ–khưu! Năm pháp chướng ngại tác thành si ám, tác thành mù lòa (vô nhãn), tác thành vô trí, đưa đến tổn hại (vighāṭapakkhiṭā) không đưa đến Níp–bàn. Thế nào là năm pháp chướng ngại…
Này chư Tỳ–khưu! Bảy giác chi tác thành mắt, tác thành trí, tăng trưởng trí, đưa đến Níp–bàn, thế nào là bảy giác chi?…”.
(Tương Ưng Kinh)
Trong năm pháp chướng ngại của Pháp giác chi, tham dục là pháp quan trọng nhất, nó ngăn che sự xuất ra khỏi cõi dục, đồng thời hỗ trợ đắc lực cho oán hận. Tham dục quyến rũ tâm đắm nhiễm vào sắc đẹp, tiếng du dương, mùi thơm, vị ngon, thân đụng chạm khoái lạc, gọi chung là tịnh tướng của cảnh trần, cùng với pháp đáng yêu, đáng thích, đáng hài lòng của tâm.
Nhưng khi tâm không đạt được điều hưởng thụ, nó trở nên bực dọc, khó chịu… Vì thế, Đức Phật có dạy: “Vật thực làm cho tham dục tăng trưởng là tịnh tướng, vật thực làm cho oán hận lớn mạnh là chướng ngại tướng (paṭighanimiṭṭa)”.
(Tương Ưng Kinh)
———••» ֎ «••———
Hành giả khi tu tập bảy giác chi, cần phải có tác ý đúng trong sự tránh xa năm trần cảnh quyến rũ. Nếu bắt buộc phải tiếp xúc với năm trần cảnh ấy thì cần phải tỉnh táo để không rơi vào đắm nhiễm.
Thật ra, tịnh tướng chẳng phải là nguy hại, sự nguy hại là do tâm đắm nhiễm dính mắc vào nó. Tịnh tướng là kết quả của thiện nghiệp đã được tích lũy, là kết quả của việc thiện đã làm, tâm đắm nhiễm dính mắc vào đó, tâm mới bị giam hãm, bị trói buộc và nó trở thành một chướng ngại, khiến tâm không thể thoát ra thế giới của dục lạc. Ví như con nhện bị giam hãm, nằm trong mạng lưới của chính nó tạo ra.
Qua sự hành thiện, sự tu tập được tích lũy, hành giả càng lúc càng nhận được kết quả kỳ diệu của sự tu tập, một trong những kết quả ấy là năm trần cảnh tốt đẹp phát sanh. Nếu không tỉnh táo, hành giả sẽ không thể xa lánh, không thể tránh khỏi dính mắc vào nó, cuối cùng rơi vào nắm giữ (upādāna) lấy nó. Ðồng nghĩa là bị nó nắm giữ, điều khiển tâm.
Sự xa lánh trần cảnh là bước đầu của sự tu tập, hành giả nên suy nghĩ trong tâm rằng:
“Ta nên lánh xa những gì có thể đưa ta đến nguy hại, suy vong. Năm cảnh trần là một trong những điều ấy, chúng rất nguy hiểm, mang đến tổn hại cho những ai thân cận với chúng. Cho dù hiện giờ ta không rơi vào quyền lực của chúng, nhưng gần gũi, thân cận với chúng, ta cũng bị ảnh hưởng không tốt.
Ví như người không uống rượu, nhưng ngồi chung với những kẻ uống rượu, y cũng bị gọi chung là “bợm nhậu”, hay tuy là kẻ vô tội nhưng đi chung đường với những tên trộm, cướp khi quan quân bắt giữ bọn trộm, cướp cũng bắt giữ luôn kẻ ấy. Vậy tốt hơn hết ta nên xa lánh nó”.
———••» ֎ «••———
Khi tiếp xúc với năm trần cảnh khả ái, khả hỷ, khả ý, khả lạc, cần phải tỉnh táo trước chúng, để không bị đắm nhiễm, bằng cách: “có sự ghi nhớ mình”.
Chính Ngài Ānanda bạch hỏi Ðức Thế Tôn rằng:
– Bạch Thế Tôn! Chúng con phải cư xử với nữ nhân như thế nào?
– Này Ānanda! Chớ có nhìn ngắm.
– Bạch Thế Tôn! Nếu phải nhìn ngắm, thì phải làm sao?
– Này Ānanda! Chớ nói chuyện.
– Bạch Thế Tôn! Nếu phải nói chuyện thì phải xử trí như thế nào?
– Này Ānanda! Phải ghi nhớ mình (saṭi upaṭṭhāpeṭabhā’ṭi = an trú Chánh Niệm).
(Kinh Ðại Bát Níp–bàn)
Một số người ít hiểu biết cứ nghĩ rằng:
“Những trần cảnh chỉ là những gì thuộc vật chất vô tri”, cần phải hiểu rằng: “Trần cảnh bao gồm vật chất vô tri lẫn chúng sanh, khi nó làm đối tượng (cảnh) cho tâm”.
Có người quý trọng con vật nuôi trong nhà hơn cả con người, chỉ vì con vật ấy xinh đẹp, khi bị mất con vật ấy, y “tiếc ngẩn, tiếc ngơ”, đôi khi phát sanh bệnh. Ðó là sự đắm nhiễm trong trần cảnh, ở đây đối tượng là những chúng sanh khả ái, khả ý (đáng yêu thích, đáng hài lòng).
Câu hỏi trên của Ngài Ānanda, chúng ta cần phải mở rộng vấn đề qua sự suy ngẫm. Ngài Ānanda, ở cương vị là bậc Sa môn Tỳ–khưu, Ngài có bốn pháp hoan hỷ là: bất kỳ hàng tứ chúng nào, Tỳ–khưu, Tỳ–khưu Ni, Cận sự nam hay Cận sự nữ, được yết kiến Ngài Ānanda sẽ hoan hỷ, được nghe Ngài Ānanda thuyết Pháp sẽ hoan hỷ. Ngài Ānanda im lặng thì thất vọng.
Vì Ngài có Pháp mang đến sự hoan hỷ cho hàng tứ chúng, lại là thị giả của Đức Thế Tôn, nên Ngài thường bị nữ nhân quấy rầy, điển hình là Tỳ–khưu ni Koliyā. Và đây cũng là nhân là duyên có câu hỏi ấy.
Câu hỏi được mở rộng trong phạm vi, đưa đến nhận thức rằng: nữ nhân là đối tượng đắm nhiễm của nam nhân và ngược lại. Trong Tăng Chi Kinh, nơi phẩm sắc (rūpavagga) Ðức Thế Tôn dạy (tóm lược) như sau:
– “Này chư Tỳ–khưu! Như Lai không thấy một sắc nào xâm chiếm ngự trị tâm người nam như sắc người nữ.
Như Lai không thấy một tiếng nào… một hương… một vị… một xúc nào xâm chiếm, ngự trị tâm người nam như xúc người nữ.
Này chư Tỳ–khưu! Như lai không thấy một sắc nào xâm chiếm ngự trị tâm người nữ như sắc người nam, một tiếng… một hương… một vị… một xúc xâm chiếm, ngự trị tâm người nữ như xúc người nam”.
Hành giả cần nhận định rõ ý nghĩa trên và cần hiểu rằng: sự tiếp xúc với năm trần cảnh đáng thích ý, đáng hài lòng trong thời hiện tại là điều khó tránh khỏi.
———••» ֎ «••———
Thời hiện tại là thời vật chất tăng thịnh, những phương tiện vật chất phục vụ cho con người được phát triển sung mãn, càng lúc càng tăng thêm phần quyến rũ.
Những vật chất ấy có phải là tội lỗi không? Không, nó không tội lỗi cũng không thánh thiện, đơn giản nó chỉ là phương tiện của con người, thế thôi. Nhưng tác hại hay không là do tâm, cái tâm đắm nhiễm, cái tâm không được điều phục, cái tâm bị hướng dẫn không đúng mới là tác hại. Chính vì những phương tiện đáng hài lòng, đáng thích ý ấy mà biết bao người phạm vào tội lỗi, phạm vào tội ác, để rồi nhận lãnh hậu quả đau khổ như tù tội… trong hiện tại.
Dĩ nhiên, không thích hợp khi nói rằng: “Người này ác, người này tội lỗi, người này đáng khinh”. Nói thích hợp là nói rằng: “Người này hành động ác, hành động tội lỗi, hành động đáng khinh”.
Ðức Phật dạy rằng: “Thân hành ác, ngữ nói ác, ý thiên về ác hay thân hành thiện, ngữ nói thiện, ý thiên về thiện”. Ngài không nói “Con người là ác, con người là thiện”.
Cũng vậy, không hợp lý khi nói rằng: “Tịnh tướng của năm trần cảnh là tội lỗi” nói hợp lý là: “Tịnh tướng có thể dẫn dắt chúng sanh rơi vào tội lỗi”, bản chất là khác, hành động là khác.
Nếu phân tích sâu hơn, sẽ thấy rằng: “hành động dẫn dắt tâm” của tịnh tướng chỉ là sự thụ động, chính tâm dính mắc vào nó, chứ nó không dính mắc vào tâm. Nó chỉ có thể phô bày sự tốt đẹp, đáng ưa thích, đáng hài lòng mà thôi. Còn tâm bị dụ dỗ, bị quyến rũ hay không là do “tác ý” của tâm. Mức độ tác hại nhẹ nhất của tâm đắm nhiễm vào tịnh tướng là: “bị ngự trị”, nói rõ hơn là: tâm bị nô lệ bởi những tịnh tướng ấy. Ðơn cử một ví dụ như sau:
Trước đây không có ánh sáng đèn điện, con người sống với ánh sáng của lửa, của đèn dầu, tâm không hề cảm thấy khó chịu. Giờ đây quá quen thuộc với ánh đèn điện, do một nguyên nhân nào đó, bị mất điện, lập tức có sự hoảng loạn, bất ổn xảy ra ngay trong tâm và mức độ nhẹ nhất đối với cái tâm thiếu hay không có sự kiểm soát là: khó chịu, bực bội. Ðiều này nói lên cái gì? Nói lên ý nghĩa “tâm bị nô lệ” ánh sáng đèn điện.
Ðó là một trong vô số ví dụ điển hình về ý nghĩa tâm bị xâm chiếm, bị ngự trị bởi năm tịnh tướng quyến rũ của năm trần cảnh vật chất.
Hành giả khi tiếp xúc với trần cảnh phải điều phục tâm, qua các cách như sau: (theo lời dạy của Ðức Thế Tôn đối với những câu hỏi của Trưởng lão Ānanda):
– Ðừng ngắm nhìn là đừng lưu ý đến.
– Nếu phải ngắm nhìn (tức là bắt buộc phải tiếp cận, gần gũi) nên có sự ghi nhớ mình.
Ðó là phương thức điều phục tâm trước những tịnh tướng của năm trần cảnh.
———••» ֎ «••———
Ví dụ trên cũng chứng tỏ rằng: tâm bực bội, khó chịu là do chạm phải bất tịnh tướng (paṭighanimiṭṭa), tức là tâm đang thụ hưởng điều nó hài lòng, bị mất đi nó trở nên khó chịu, khó chịu được phát triển trở thành giận dữ (byāpāda) đôi khi hiển lộ ra thân hay lời nói như mắng nhiếc hoặc đập phá…
Thế là, chúng ta có hai kết luận nhỏ bé:
– “Tâm không hiểu biết, thiếu hiểu biết trở thành nô lệ cho tịnh tướng của năm trần cảnh”.
– “Tham dục là duyên khiến oán hận (sân độc) sanh lên và phát triển”.
Hành giả có sự ghi nhớ mình hay có chánh niệm (saṭi upaṭṭhāpeṭabhā’ṭi) là người có sự điều phục tâm. Ðức Thế Tôn dạy trong Aṅguṭṭara–nikāya rằng:
“Này chư Tỳ–khưu! Tâm được điều phục, được hộ trì, được phòng hộ, được bảo vệ, đưa đến lợi ích lớn”.
Như đã nói, dục tham là chướng ngại mạnh nhất của giác chi trong lãnh vực giác ngộ. Hành giả phải có tác ý đến bất tịnh tướng trong tịnh tướng để dục tham chưa sanh không sanh, dục tham đang sanh bị đoạn trừ.
Ðức Thế Tôn có dạy:
“Này chư Tỳ–khưu! Tâm này là sáng chói, nhưng bị ô nhiễm bởi cấu uế từ bên ngoài vào.
Này chư Tỳ–khưu! Tâm này là sáng chói và tâm này được gột sạch những cấu uế từ bên ngoài vào”.
(Tăng Chi kinh)
Nói chung, năm chướng ngại là cấu uế của tâm, những cấu uế này từ bên ngoài đưa vào, cấu uế ấy được gọt sạch bằng tác ý đúng.
–––––––
>> Đón đọc ngày 06/09: “Những Điều Cần Biết Về Niệm Giác Chi”
(Trích “Đường đến Giác ngộ: 37 phần Bồ đề”, Thượng tọa Chánh Minh biên soạn)
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB