Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã
Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã
Yasmā ca kho, bhikkhave, rūpaṁ anattā, tasmā rūpaṁ ābādhāya saṁvattati, na ca labbhati rūpe evaṁ me rūpaṁ hotu, evaṁ me rūpaṁ mā ahosī’ ti.
“Nầy chư Tỳ Khưu, trong thực tế thân nầy không phải là ta. Vì không phải là ta nên nó có khuynh hướng làm cho ta đau khổ và sầu muộn, và ta không thể sai bảo thân: ‘Hãy như thế nầy, hãy không phải như thế kia.’ Ta không thể gieo ảnh hưởng và điều khiển thân như vậy”.
Tại Sao Thân Nầy Không Phải Là Tự Ngã?
Nếu thân nầy là tự ngã, là chính ta, ắt nó không làm cho ta đau đớn, nhưng trong thực tế thân nầy bắt buộc ta phải chịu đau khổ bằng nhiều cách. Nó không tồn tại trẻ trung và khoẻ mạnh, nó trở nên già nua, bệnh hoạn và chết. Nếu không có thân ắt ta không bị đau khổ vì tóc bạc, răng long, lưng khòm, tai điếc, mắt mờ, chân mỏi, gối dùn, tàn tật. Chính thân nầy làm cho ta chịu đau khổ.
Lại nữa, bởi có thân nên ta phải chịu đau đớn: đau mắt, đau tai, đau răng, đau lưng, đau bụng, phải chịu nóng, chịu lạnh, chịu đau và chịu nhức, và những chứng bệnh máu, bệnh da, bệnh bao tử và bọng đái. Những chứng bệnh nầy phát sanh bởi vì có thân. Bởi có thân nên chúng ta đau khổ vì đói, vì khát, vì bị muổi mồng và những loại rắn rít v.v… chích cắn. Cũng vì có thân nên ta đau khổ khi ở trong những cảnh giới bất hạnh.
Lại nữa, ṅếu thân nầy là chính ta thì ta phải có thể sai bảo, “Thân phải như thế nầy, thân phải không như thế kia.” Tất cả chúng sanh đều muốn thấy thân mình luôn luôn khoẻ mạnh và trẻ trung cường tráng, không già nua, không bệnh hoạn, và không chết. Nhưng cơ thể vật chất nầy không bao giờ vâng lời, nó từ chối, không làm theo ý ta muốn. Thời xuân xanh son trẻ vững bước đi dần đến tuổi già, sức cường tráng khoẻ mạnh từ từ giảm sút, suy đồi, và đưa dần đến bệnh hoạn, rồi sau cùng đến bại hoại và chết.
** Bốn Loại Luyến Ái Bám Níu Vào Tự Ngã
Có bốn loại bám níu khởi sanh từ niềm tin tự ngã:
1. Sāmi attā, chấp thủ vào “tự ngã kiểm soát”: tin tưởng rằng có một cái ta, một thực thể sống hay một linh hồn bên trong cơ thể vật chất, thống trị, chi phối và điều khiển mọi ý muốn và hành động, và chính cái linh hồn sống ấy đi, đứng, ngồi xuống, ngủ và nói, mỗi khi muốn.
Ðức Thế Tôn dạy bài Kinh Vô Ngã Tướng, Anatta–lakkhaṇa Sutta, đặc biệt để loại trừ sự bám níu vào cái “tự ngã kiểm soát”, sāmi attā nầy. Giờ đây, vì thời Pháp nầy được thuyết giảng cho “Ṅhóm Năm Ðạo Sĩ” mà trước đó đã chứng đắc Ðạo Quả Nhập Lưu, có thể nào ta còn thắc mắc tự hỏi: vậy một vị Tu Ðà Huờn còn bám níu vào tự ngã, hay cái “ta” nữa không?
Ðến tầng Nhập Lưu vị Thánh Tu Ðà Huờn đã hoàn toàn tận diệt ba thằng thúc: thân kiến (sakkāyadiṭṭhi), hoài nghi (vicikicchā), và giới cấm thủ (sīlabbataparāmāsa). Nhưng Ngài chưa thoát hẳn ra khỏi thằng thúc ngã mạn (asmi–māna), tức hãnh diện với cái ngã của mình và so sánh với cái ngã của người khác. Hãnh diện với tài giỏi hay địa vị của mình, “tôi có khả năng làm việc ấy, tôi là thánh nhân” – là ngã mạn.
(Hãnh diện của vị Tu Ðà Huờn chỉ liên quan đến đặc tánh và phẩm hạnh thật sự của mình, không phải giả dối hãnh diện với những đặc tính và phẩm hạnh mà chính mình không có, và tự so sánh với ai khác.)
Như vậy, vị thánh Nhập Lưu còn phải tiếp tục hành thiền minh sát để tận diệt thằng thúc ngã mạn. Khi tuệ minh sát (vipassanāñāṇa) được tích cực trau giồi và phát triển, thằng thúc ngã mạn dần dần được tháo gỡ và tuần tự được loại trừ bằng Tư Ðà Hàm Ðạo (Sakadāgami Magga, Nhất Lai Ðạo); A Na Hàm Ðạo (Anāgāmi Magga, Bất Lai Ðạo) làm suy giảm thêm tâm sở ngã mạn, nhưng chỉ đến tầng Thánh cuối cùng là A La Hán Ðạo (Arahatta Magga) mới hoàn toàn tận diệt thằng thúc ngã mạn. Như vậy ta có thể xác định rằng Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài Kinh Vô Ngã Tướng nhằm giúp “Ṅhóm Năm Ðạo Sĩ” tận diệt thằng thúc ngã mạn.
2. Nivāsī attā, chấp thủ vào “tự ngã liên tục”: tin rằng có một thực thể sống thường trực nằm bên trong thân mình.
Phần đông người ta tin tưởng rằng thường xuyên có một linh hồn đơn thuần nguyên vẹn, hay một chúng sanh từ lúc sanh ra đến khi chết. Ðó là nivāsi attā, sự bám níu vào một linh hồn, hay một tự ngã liên tục thường còn. Vài người chủ trương rằng sau khi chết thì không còn gì hết; đó là quan kiến lầm lạc gọi là đoạn kiến. Cũng có người lầm lạc tin tưởng vào thuyết thường kiến, cho rằng cái thực thể sống trong thân, hay linh hồn, vẫn không tiêu diệt sau khi chết mà tiếp tục được chuyển qua, sống trong một cái thân mới, trong kiếp sống mới.
Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài Anattalakkhaṇa Sutta, Kinh Vô Ngã Tướng, nhằm loại trừ tình trạng bám níu vào tính ngã mạn, tức tận diệt, bứng nhổ tận gốc rễ tính ngã mạn còn tiềm tàng bên trong “Nhóm Năm Ðạo Sĩ” và những vị Thánh Nhân khác; và nhằm loại trừ hai quan kiến lầm lạc (về thân kiến, sakkāyadiṭṭhi, và về sự bám níu vào nghi lễ và những nghi thức cúng tế sīlabbata–parāmāsa), cùng với tính ngã mạn của người thường trong dân gian.
Ngày nào còn bám vào một thực thể sống hay một linh hồn đơn thuần nguyên vẹn, chúng ta còn tin tưởng rằng thân nầy phải phục tùng tùy thuộc theo quyền điều khiển của mình. Kinh Anattalakkhaṇa, Vô Ngã Tướng, được thuyết giảng nhằm loại trừ cả hai, sự bám níu vào”tự ngã kiểm soát” và sự bám níu vào “tự ngã liên tục”. Một khi tự ngã kiểm soát, đã bị loại trừ thì tất cả các loại bám níu khác vào tự ngã và tà kiến, đồng thời cũng bị tận diệt.
3. Kāraka attā, chấp thủ vào “tự ngã chủ động”: tin rằng có một thực thể sống, một linh hồn, ảnh hưởng đến mọi hành động bằng thân, khẩu hay ý.
Chấp thủ vào tự ngã chủ động liên quan nhiều đến saṅkhārakkhandha, hành uẩn. Chúng ta sẽ trở lại với nhiều chi tiết khi đề cập đến ngũ uẩn.
4. Vedaka attā, chấp thủ vào “tự ngã chứng nghiệm”: tin rằng chính tự ngã, hay linh hồn nầy cảm nhận những thọ cảm, thọ lạc hay thọ khổ.
Hình thức chấp thủ nầy liên quan đến vedanakkhandha, thọ uẩn, mà chúng ta sẽ đề cập đến đầy đủ trong chương tới. Ðến đây phần sắc pháp là vô ngã – nói cách khác, sắc pháp, hay thân nầy, không phải là tự ngã, hay một thực thể sống, một linh hồn đơn thuần nguyên vẹn thường còn – đã được giảng giải thích đáng, nhưng còn phần thực hành thiền minh sát, vipassanā, đưa đến sự thông suốt bản chất không thể kiểm soát của thân.
Trích bài giảng: “Kinh Vô Ngã Tướng”
(Anattalakkhaṇa Sutta)
Cố Đại Lão Thiền sư Mahasi Sayadaw
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB