Hạnh Phúc Kinh – Mangala Sutta
HẠNH PHÚC KINH – MANGALA SUTTA
(Tiểu Bộ – Khuddhaka Nikaya, Kinh Tập – Sutta Nipata, budsas)
Bài kinh nổi tiếng này, thường được trì tụng trong các nước Phật Giáo, là một bài tóm tắt minh bạch và đầy đủ các điều luân lý của đạo Phật, cho cá nhân và xã hội. Ba mươi tám điều phúc lành trong bài đó là một hướng dẫn thiết yếu cho đường đời. Bắt đầu là “lánh xa kẻ xấu ác” vốn căn bản cho các tiến bộ luân lý và tâm linh, những điều Phúc Lành đưa đến thành tựu một tâm ý vô tham, vô úy, an nhiên. Hành trì theo các lời dạy trong bài kinh là một con đường chắc chắn đưa đến đời sống hài hòa và tiến bộ của cá nhân cũng như của xã hội, quốc gia, và nhân loại.
Trưởng Lão Narada
Hạnh Phúc Kinh – Mangala Sutta
Tôi có nghe như vầy: Vào một thời nọ Đức Thế Tôn ngự tại Jetavana (Kỳ Viên) của Trưởng Giả Anathapindika [2] (Cấp Cô Độc), gần thành Savatthi (Xá Vệ) [3].
Lúc bấy giờ, đêm về khuya, có một vị Trời hào quang chiếu diệu sáng tỏa toàn khu Kỳ Viên, đến hầu Phật, lại gần nơi Phật ngự, đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi đứng sang một bên. Khi đã đứng yên, vị Trời cung kính bạch với Đức Thế Tôn bằng lời kệ [4]:
1. Chư Thiên và nhân loại đều cầu mong được an lành, và ai cũng suy tìm hạnh phúc. Kính Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài hoan hỷ chỉ dạy chúng con về Phúc Lành Cao Thượng Nhất. [5]
2. Không kết giao với người ác, thân cận với bậc hiền trí, và tôn kính bậc đáng kính – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
3. Cư ngụ nơi thích nghi [6], đã có tạo công đức trong quá khứ, và hướng tâm về chánh đạo [7] – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
4. Học nhiều hiểu rộng [8], lão luyện tinh thông thủ công nghiệp [9], giới hạnh thuần thục trang nghiêm [10], có lời nói thanh nhã – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
5. Hiếu thảo phụng dưỡng cha mẹ, thương yêu tiếp độ vợ con, và hành nghề an lạc – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
6. Rộng lượng bố thí, tâm tánh trực giác, giúp đỡ họ hàng, và tạo nghiệp chân chánh – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
7. Loại trừ và ngăn ngừa nghiệp ác [11], thận trọng kiêng cữ các chất say, vững vàng giữ gìn phẩm hạnh – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
8. Đức hạnh biết tôn kính [12], khiêm tốn, biết đủ, biết ơn và đúng lúc, lắng nghe Giáo Pháp (Dhamma) [13] – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
9. Nhẫn nhục, biết vâng lời, thường gặp gỡ bậc Sa Môn (Samanas) [14] và tùy thời, luận đàm về Giáo Pháp – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
10. Tự kiểm soát, sống đời Thánh Thiện, quán tri Tứ Đế, liễu ngộ Niết Bàn – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
11. Người mà tâm không giao động khi tiếp xúc với thế gian pháp [15], Không Sầu Muộn, Vô Nhiễm và An Toàn [16] – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
12. Đối với những ai đã viên mãn hoàn thành các pháp trên [17], ở mọi nơi đều không thể bị thất bại, đi khắp nơi đều được hạnh phúc – là Phúc Lành Cao Thượng Nhất.
Ghi chú Hạnh Phúc Kinh
[1] So sánh với Túc Sanh Truyện Mahamangala Jakata (số 453). Bài kinh này được ghi trong bộ Sutta Nipata, Khuddaka Nikaya.
[2] Anathapindika, theo nghĩa trắng là “Người cho ăn đến kẻ cô đơn không được giúp đỡ” hoặc “Nuôi sống những người bị bỏ rơi”, ta thường gọi là Cấp Cô Độc. Tên thật của ông là Sudatta. Sau khi quy y trở thành Phật tử, ông mua một khu rừng tươi tốt của Ông Hoàng Jeta (Kỳ Đà) và xây dựng một ngôi đạo tràng có tên là Jetavanarama (Kỳ Viên Tịnh Xá). Nơi đây Đức Phật cư ngụ phần lớn đời Ngài.
Muốn có nhiều chi tiết về Sudatta, đọc Kindred Sayings, phần I, trang 27; và Vinaya Text, tập iii, trang 179.
[3] Savathi, tên ngày nay là Sahet-Mahet.
[4] Bản Chú Giải ghi nhận rằng ngày kia có một cuộc bàn thảo sôi nổi xảy ra trong “Hội Trường” nhằm tìm hiểu thế nào là phúc lành cao thượng nhất.
Đông người, mỗi người có một ý kiến riêng. Có người chủ trương rằng sáng sớm ra đường thấy một điềm lành (như gặp một người mẹ bồng con, một em bé, một con bò trắng, v.v…) là phúc lành.
Những người có ý kiến khác nhau chia làm ba nhóm, mạnh mẽ bênh vực ý kiến của nhóm mình, và cuộc bàn cãi sôi nổi lan tràn đến cảnh giới chư thiên. Các vị Trời cũng không đồng ý với nhau, không thỏa mãn được với những cuộc tranh luận, đem câu chuyện lên đến Vua Trời Sakka (Đế Thích).
Sau cùng, Vua Trời Sakka đề cử một vị Trời đại diện đến hầu Phật và cung thỉnh tôn ý Ngài. Chính vị Trời ấy đến gần Đức Thế Tôn và bạch hỏi bằng câu kệ.
[5] Phúc Lành Cao Thượng Nhất. Theo Bản Chú Giải, Mangala có nghĩa là những gì dẫn đến hạnh phúc và thịnh vượng. Theo các nhà ngữ nguyên học, danh từ này chia làm ba phần: “Man” là trạng thái khốn khổ, “ga” là đưa đến và “la” là cắt đứt. Các Ngài gộp chung ba phần lại và giải thích “Mangala” là “cái gì chặn đứng con đường đưa đến trạng thái khốn khổ”.
[6] Cư ngụ nơi thích nghi. Tức là nơi nào Tứ Chúng (chư vị Tỳ Khưu, Tỳ Khưu Ni, Cận Nam và Tín Nữ) thường cư trú, thường có những người tâm đạo nhiệt thành thực hành thập thiện nghiệp, và nơi mà Giáo Pháp được xem là quy tắc của đời sống. (Bản Chú Giải).
[7] Hướng tâm về chánh đạo. Tức là hướng cái tâm đồi bại vô luân về đạo đức chân chánh, tâm mất đức tin về niềm tin chân chánh và tâm ích kỷ vị ngã về lòng quảng đại vị tha. (Bản Chú Giải).
[8] Học nhiều hiểu rộng. Bahusutta, theo nghĩa trắng là “người có nghe nhiều”, đa văn. Danh từ này hàm ý là người có học vấn uyên bác thâm sâu. Vào thời xưa không có sách vở, vì lẽ ấy, người nhớ nhiều giáo huấn của thầy được xem là học rộng, hiểu sâu. Nơi đây học rộng, hay “nghe nhiều” có nghĩa là người thông hiểu Giáo Pháp (Dhamma) một cách sâu xa.
[9] Bản Chú Giải đề cập đến hai loại công ăn việc làm: nghề không làm tổn hại đến ai của người sống tại gia, như thợ bạc, thợ rèn v.v… và nghề của người xuất gia như vá y v.v…
[10] Vinaya, tức giới luật trang nghiêm trong tư tưởng, lời nói và việc làm.
Bản Chú Giải đề cập đến hai loại giới luật: giới của người tại gia, tức không vi phạm thập bất thiện nghiệp và giới luật của hàng xuất gia như bảy loại vi phạm được kể trong Giới Bổn (Patimokkha), hoặc nghiêm trì Tứ Thanh Tịnh Giới.
[11] Hoàn toàn lánh xa ác nghiệp, không phải chỉ tiết chế chừng mực.
[12] Tức tôn kính Đức Phật và các môn đệ của Ngài, tôn kính Thầy, cha, mẹ, bậc trưởng thượng v.v… (Bản Chú Giải).
[13] Thí dụ như lúc ta bị những tư tưởng ô nhiễm ám ảnh, khuấy động.
[14] Những người đã đè nén khát vọng của mình.
[15] Thế gian pháp (lokadhamma), gồm có tám là: được và mất, danh thơm và tiếng xấu, tán dương và khiển trách, đau khổ và hạnh phúc.
[16] Asokam, Virajam và Khemam. Mỗi danh từ trong ba Phạn ngữ này đều hàm xúc tâm của một vị A La Hán. Asoka là không sầu não, phiền muộn. Virajam là không có những ô nhiễm tham ái, sân hận và si mê. Khema là an toàn không bị trói buộc trong những thằng thúc tham dục (Kama), trở thành, hữu (Bhava), tà kiến (Ditthi) và vô minh (Avijja) – (dục lậu, hữu lậu, tà kiến lậu và vô minh lậu).
[17] Tức ba mươi tám Phúc Lành kể trên. (Bản Chú Giải).
Trích dẫn từ: “Đức Phật và Phật Pháp”, (The Buddha and His Teachings), Trưởng Lão Narada, 1980, Phạm Kim Khánh dịch Việt, 1998, budsas
Tài liệu tham khảo thêm: “Giảng giải 38 pháp Hạnh Phúc” – Maha Thongkham budsas
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB