Abhidhama Vi diệu pháp là Phật ngôn

Abhidhama Vi diệu pháp là Phật ngôn

https://www.facebook.com/share/1F3GaspTU4/

–––––––––––––––

(“Nên tránh xa những người có tà kiến cho rằng Abhidhamma Vi diệu pháp không phải là Phật ngôn. Hãy đặt niềm tin vào kết quả thẩm định của chư vị Đại trưởng lão Thánh Tăng tại Đại hội kết tập kinh điển Tam Tạng, chớ đặt niềm tin vào suy xét diễn giải của các phàm phu liệt trí phá rối Đạo [vitaṇḍavādī], làm hủy hoại tín tâm vào Chánh pháp. သာဓု! 𝔰𝔞̄𝔡𝔥𝔲! 𝐒𝐚̄𝐝𝐡𝐮! Lành thay!” – Sumangala Bhikkhu Viên Phúc)

Long Nguyễn

Chúng ta cùng khảo sát và chứng minh Abhidhamma là Phật ngôn, song song đó cũng giải quyết các điều ngụy biện chống phá Abhidhamma của những kẻ dị giáo, rối Đạo [vitaṇḍavādī] (*)

(Vì nội dung quá dài nên tôi sẽ chia thành 2 phần)

____________PHẦN 1:

Trước hết, muốn tìm hiểu kỹ lưỡng về Tạng Abhidhamma, chúng ta phải biết rõ về nguồn gốc các bộ Chánh sớ (aṭṭhakathā), vì có rất nhiều kiến thức, nếu không có Aṭṭhakathā thì không thể lý giải thấu đáo được.

Theo định nghĩa từ Sāratthadīpanī–ṭīkā: Ettha ca attho kathiyati etāyāti atthakathā, sāyeva aṭṭhakathā tthakārassa ṭṭhakāraṃ katvā ‘‘dukkhassa pīḷanaṭṭho’’tiādīsu [paṭi. ma. 1.17; 2.8] viya

Từ ‘aṭṭhakathā’ có nghĩa là ‘(nơi) mà ý nghĩa được trình bày’, nó được hình thành từ sự chuyển đổi âm ‘ttha’ thành ‘ṭṭha’, như trong Paṭisambhidāmagga, tập 1, đoạn 17 hoặc tập 2, đoạn 8 có nói rằng: “ý nghĩa của Khổ là sự áp bức”

Tôi quen gọi Aṭṭhakathā là Chánh sớ, phần đông gọi nó là Chú giải.

Chúng ta biết rằng các bộ Chánh sớ (aṭṭhakathā) chứa đựng 2 phần nội dung rất quan trọng:

– 1 là những lời dạy riêng rẽ (pakiṇṇaka) của Đức Phật nhưng không được kết tập vào Chánh tạng (pāḷi) [idampi kira bhagavatā vuttameva, pāḷiyaṃ pana na ārūḷhaṃ. – Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā, 253];

– 2 là tập hợp những lời giải thích (gồm cả nội hàm Giáo lý và bối cảnh lịch sử trong bản văn Chánh tạng) từ các vị Thánh Thanh văn đệ tử, như tôn giả Upāli và những vị Thánh khác, là những người hiểu được ý tứ của Đức Phật qua Pháp thoại mà Ngài đã thuyết [Bhagavato hi adhippāyaṃ ñatvā upālittherādīhi aṭṭhakathā ṭhapitā – Pārājikakaṇḍa–aṭṭhakathā, 77]

Sau Cuộc Kết Tập Kinh Điển Lần Thứ 3, các bộ Chánh tạng và Chánh sớ đã theo chân sứ đoàn truyền giáo, do thánh tăng Mahinda lãnh đạo, bước vào Tambapaṇṇidīpa (là Srilanka bây giờ). Các bộ Kinh điển ấy đã được ngài Mahinda chuyển ngữ sang tiếng Sinhala để phục vụ công cuộc truyền giáo lúc bấy giờ. Như lời Mahāvaṃsapāḷi, Chương 37, đoạn 228 – 229, đã nói như sau:

Sīhaḷāṭṭhakathā suddhā, mahindena matīmatā;

Saṃgītittayamāruḷaṃ, sammāsambuddhadesitaṃ.

Sāriputtādigītañca, kathāmaggaṃ samekkhiya;

Ekā sīhaḷabhāsāya, sīhaḷesu pavattati.

Những bản Chú giải bằng tiếng Sinhala được ngài Mahinda chuyển ngữ, phổ biến trên quốc Srilanka, đã gom thâu toàn bộ lời giảng giải của Đức Phật và các bậc thánh như ngài Sāriputta,.v.v… được gìn giữ qua 3 Kỳ Kết Tập

(Đương nhiên, chúng ta biết trong thời của ngài Mahinda vẫn là khẩu truyền)

Đến lúc các vị Chú giải sư, như ngài Buddhaghosa, ngài Dhammapāla…, sang đến Srilanka thì các bộ Chánh sớ đã được ghi chép bằng mẫu tự Sinhalese, công việc của các ngài chỉ là san định và chuyển ngữ thôi. Như Pārājikakaṇḍa–aṭṭhakathā, Chương Ganthārambhakathā, có trình bày rằng:

Saṃvaṇṇanā sīhaḷadīpakena;

Vākyena esā pana saṅkhatattā;

Na kiñci atthaṃ abhisambhuṇāti;

Dīpantare bhikkhujanassa yasmā.

Các bản Chú giải này được trình bày bằng mẫu tự Sinhalese, nên rất khó cho các vị tỳ–khưu ở những xứ khác ngoài Srilanka có thể tiếp cận được nội dung.

Tasmā imaṃ pāḷinayānurūpaṃ;

Saṃvaṇṇanaṃ dāni samārabhissaṃ;

Ajjhesanaṃ buddhasirivhayassa;

Therassa sammā samanussaranto.

bằng cả niềm tôn kính, tôi vâng lời yêu cầu của trưởng lão Buddhasiri mà chuyển ngữ toàn bộ những bản văn ấy về tiếng Pāḷi cách chính xác

Saṃvaṇṇanaṃ tañca samārabhanto;

Tassā mahāaṭṭhakathaṃ sarīraṃ;

Katvā mahāpaccariyaṃ tatheva;

Kurundināmādisu vissutāsu.

Khi làm công việc này, tôi đã dựa vào khung sườn của các bộ Chú giải như Mahā–aṭṭhakatha, Kurundī, Mahāpaccarī, và các bộ Chú giải cổ xưa khác

Vinicchayo aṭṭhakathāsu vutto;

Yo yuttamatthaṃ apariccajanto;

Tatopi antogadhatheravādaṃ;

Saṃvaṇṇanaṃ samma samārabhissaṃ.

Sưu lục tất cả những gì được trình bày cách đúng đắn theo tinh thần của Giáo hội Theravāda. Như thế, tôi bắt đầu công việc của mình

Sự xuất hiện và tồn tại của Chú giải là song hành với Chánh tạng từ thời của Đức Phật, chúng ta thấy việc chư tỳ–khưu, hay cư sĩ, sau khi nghe Đức Phật thuyết Pháp xong nhưng vẫn chưa hiểu hết ý nghĩa của bài Pháp thì thường chạy đến tham khảo với các vị Thánh Thanh văn. Sau đó, khi đã được Đức Phật xác chứng nội dung thì hiển nhiên lời giải thích của các vị Thánh đệ tử cũng có thẩm quyền giáo lý ngang hàng với Lời nói của chính Đức Phật vậy. Chúng ta thấy được điều này qua các bài Kinh như: Saṅgītisuttaṃ, Dasuttarasuttaṃ, Madhupiṇḍikasuttaṃ, Cūḷavedallasuttaṃ,… hay những bộ Kinh như: Niddesapāḷi, Paṭisambhidāmaggapāḷi,…

Thế nên những ai bước đi trong truyền thống của Giáo hội Theravāda đều không thể phủ nhận thẩm quyền Giáo lý của các bản Chú giải chính thống này.

Theo các bản Chánh sớ đầu tiên của mỗi Tạng, gồm: Pārājikakaṇḍa–aṭṭhakathā; Sīlakkhandhavaggaṭṭhakathā; Dhammasaṅgaṇī–aṭṭhakathā, trình bày rằng: toàn bộ Giáo pháp của Đức Thế Tôn được kết tập,

Nếu nói thành 3 tạng [Kathaṃ piṭakavasena tividhaṃ?]: thì là Tạng Kinh, Tạng Luật và Tạng Abhidhamma [Sabbampi hetaṃ vinayapiṭakaṃ suttantapiṭakaṃ abhidhammapiṭakanti tippabhedameva hoti.]

Nếu nói thành 5 bộ [Kathaṃ nikāyavasena pañcavidhaṃ?]: thì là Trường Bộ, Trung Bộ, Tương Ưng, Tăng Chi và phần còn lại của Giáo pháp nằm hết trong Tiểu Bộ [Sabbameva cetaṃ dīghanikāyo, majjhimanikāyo, saṃyuttanikāyo, aṅguttaranikāyo, khuddakanikāyoti pañcappabhedaṃ hoti.].

Trong đó Tiểu Bộ là phần còn lại của Phật ngôn khi không tính 4 bộ (nikāya) đầu tiên, nghĩa là bao gồm Tạng Luật, Tạng Abhidhamma và 15 phần Kinh điển còn lại [Katamo khuddakanikāyo? Sakalaṃ vinayapiṭakaṃ abhidhammapiṭakaṃ khuddakapāṭhādayo ca pubbe nidassitā pannarasabhedā ṭhapetvā cattāro nikāye avasesaṃ buddhavacananti.]

Nếu nói thành 9 chi [Kathaṃ aṅgavasena navavidhaṃ?]: thì bao gồm: Khế kinh, Ứng tụng, Ký thuyết, Kệ ngôn, Cảm hứng ngữ, Như thị ngữ, Bổn sanh, Vị tằng hữu, và Phương quảng. [Sabbameva hidaṃ suttaṃ, geyyaṃ, veyyākaraṇaṃ, gāthā, udānaṃ, itivuttakaṃ, jātakaṃ, abbhutadhammaṃ, vedallanti navappabhedaṃ hoti.].

Trong đó Ký thuyết (veyyākaraṇa) chính là toàn bộ Tạng Abhidhamma, những phần Kinh điển không có lẫn kệ ngôn và hết thảy những Lời dạy còn lại của Đức Phật mà không thuộc 8 chi phần trên [sakalaṃ abhidhammapiṭakaṃ, niggāthakaṃ suttaṃ, yañca aññampi aṭṭhahi aṅgehi asaṅgahitaṃ buddhavacanaṃ taṃ veyyākaraṇanti veditabbaṃ]

Nếu nói thành 84000 pháp uẩn [Kathaṃ dhammakkhandhavasena caturāsītisahassavidhaṃ?]: thì như lời thánh Ānanda đã nói trong Theragāthāpāḷi, đoạn 1027 rằng:

‘‘Dvāsīti buddhato gaṇhiṃ, dve sahassāni bhikkhuto;

Caturāsīti sahassāni, ye me dhammā pavattino’’ti. (theragā. 1027)

(Ta học từ Thế Tôn 82 ngàn pháp, và học từ Tỳ–khưu thêm 2 ngàn pháp nữa. Tổng cộng 84 ngàn, là pháp Ta nằm lòng)

Trong đó, Tạng Luật gồm 21 ngàn pháp uẩn [‘Ekavīsasahassāni khandhā Vinayapiṭake], Tạng Kinh gồm 21 ngàn pháp uẩn [Ekavīsasahassāni khandhā Suttantapiṭake] và Tạng Abhidhamma gồm 42 ngàn pháp uẩn [Dvecattāḷīsasahassāni khandhā Abhidhammapiṭake’ti]

>>>> như vậy, chúng ta thấy rằng nếu loại Tạng Abhidhamma ra khỏi Phật ngôn thì toàn bộ Tam Tạng sẽ bị thiếu mất 1/3 và toàn bộ Pháp uẩn sẽ bị thiếu mất 1/2.

>>>> hơn nữa, nếu người nào không chấp nhận cách giải thích của Chánh sớ rằng Tạng Abhidhamma chính là chi phần Ký thuyết trong 9 chi phần Giáo lý, thì người đó cũng bác bỏ luôn cả Tạng Luật và Tạng Kinh. Vì tất cả những lý giải về 9 chi phần Giáo lý, gom thâu cả 3 Tạng ấy đều bắt nguồn từ Chánh sớ, chúng ta không thể chấp nhận câu này mà bỏ câu kia được.

____A/. Giờ đây, chúng ta cùng khảo sát, qua Kinh điển, về sự tồn tại của Tạng Abhidhamma trong đời sống của Giáo hội từ thuở Đức Phật còn tại tiền:

1)_____ Apadānapāḷi, Buddhavaggo:

3–5. Puṇṇamantāṇiputtattheraapadānaṃ

Saṅkhittenapi desemi, vitthārena tathevahaṃ;

Abhidhammanayaññūhaṃ [Apadāna–aṭṭhakathā: Abhidhammanayaññūhanti ahaṃ tadā tassa buddhassa kāle abhidhammanayakovidoti attho], kathāvatthuvisuddhiyā [aṭṭhakathā: Kathāvatthuvisuddhiyāti kathāvatthuppakaraṇe visuddhiyā cheko,…];

Sabbesaṃ viññāpetvāna [aṭṭhakathā: sabbesaṃ yatijanānaṃ paṇḍitānaṃ viññāpetvāna bodhetvāna], viharāmi anāsavo.

Thánh Puṇṇa đã tự nhận rằng, khi Đức Phật còn tại tiền, Ngài là người hiểu rõ tường tận Tạng Abhidhamma, thông thạo Bộ Kathāvatthu (và những chủ đề thuyết giảng khác). Nhờ đó, Ngài có khả năng giảng dạy mọi điều và khai tâm cho người trí hiểu Đạo, cũng như tự mình chấm dứt tất cả lậu hoặc.

3–6. Upālittheraapadānaṃ:

Suttantaṃ abhidhammañca, vinayañcāpi [Apadāna–aṭṭhakathā: Suttantaṃ abhidhammañcāti tava tuyhaṃ ettha dhammanagare suttantaṃ abhidhammaṃ vinayañca] kevalaṃ;

Navaṅgaṃ buddhavacanaṃ, esā dhammasabhā tava.

Thánh Upāli nói rằng: Tạng Kinh, Tạng Abhidhamma và Tạng Luật, cả 3 Tạng chứa đựng trọn vẹn 9 thể tài giáo lý, hợp thành vương cung Chánh Pháp của Đức Thế Tôn

Apadānapāḷi, Ekūposathikavaggo, đoạn 377

Kusalāhaṃ visuddhīsu, kathāvatthuvisāradā;

Abhidhammanayaññū ca, vasippattāmhi sāsane.

Thánh ni Khemā tự nhận rằng Ngài thiện xảo trong Bộ Kathāvatthu, tinh thông Abhidhamma và thuần thục trong Giáo pháp của Đức Phật.

2)_____ Parivārapāḷi, đoạn 3:

Ete nāgā mahāpaññā, jambudīpā idhāgatā;

Vinayaṃ te vācayiṃsu, piṭakaṃ tambapaṇṇiyā.

Nikāye pañca vācesuṃ, satta ceva pakaraṇe;

Những Bậc long tượng, đại trí đến từ Jambudīpa (Ấn Độ), các Ngài đã giảng dạy Tam Tạng, gồm Tạng Kinh, Tạng Luật và 7 Bộ Abhidhamma khắp xứ Tambapaṇṇi (Srilanka)

3)_____ Mahāvaggapāḷi, đoạn 131

Pamuṭṭhamhi ca suttante, abhidhamme ca tāvade;

Vinaye avinaṭṭhamhi, puna tiṭṭhati sāsanaṃ.

Dẫu cho Tạng Kinh và Tạng Abhidhamma không còn, nhưng chỉ cần Tạng Luật còn thì Phật Pháp vẫn còn tồn tại

4)_____ Tạng Luật, phần Mahāvaggapāḷi, đoạn 84 và [Mahāvagga–aṭṭhakathā, đoạn 84]

Aparehipi, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ [Na upasampādetabbanti upajjhāyena hutvā na upasampādetabbaṃ], na nissayo [Na nissayo dātabboti ācariyena hutvā nissayo na dātabbo] dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo. (**)

Lại nữa, này các tỳ–khưu, tỳ–khưu nào có đủ 5 yếu tố này thì không xứng đáng (ayutta) trở thành thầy tiếp độ để truyền cụ túc giới cho người khác, không xứng đáng là người dạy dỗ Giáo lý cho bất kỳ ai, không xứng đáng cho Sa–di phục vụ.

Na paṭibalo hoti antevāsiṃ vā saddhivihāriṃ vā abhisamācārikāya sikkhāya sikkhāpetuṃ [Ābhisamācārikāya sikkhāyāti khandhakavatte vinetuṃ na paṭibalo hotīti attho.],

Đó là người không có khả năng huấn luyện cho học trò hay đệ tử của mình những phận sự căn bản trong Đại phẩm và Tiểu phẩm của Tạng Luật,

ādibrahmacariyakāya sikkhāya vinetuṃ [Ādibrahmacariyakāyāti sekkhapaṇṇattiyaṃ vinetuṃ na paṭibaloti attho.],

là người không có khả năng hướng dẫn những điều học đã được Đức Phật chế định (tức là Pāṭimokkha), vốn là tiền đề của phạm hạnh,

abhidhamme vinetuṃ [Abhidhammeti nāmarūpaparicchede vinetuṃ na paṭibaloti attho.],

là người không có khả năng dạy dỗ giáo lý Abhidhamma, tức là không có khả năng phân tích về Danh – Sắc,

abhivinaye vinetuṃ [Abhivinayeti sakale vinayapiṭake vinetuṃ na paṭibaloti attho.],

là người không có khả năng hướng dẫn cho học trò hay đệ tử của mình thông hiểu toàn bộ Tạng Luật,

uppannaṃ diṭṭhigataṃ dhammato vivecetuṃ [Dhammato vivecetunti dhammena kāraṇena vissajjāpetuṃ.]–

là người không có khả năng vận dụng Giáo lý để phân tích và loại bỏ tà kiến nổi lên.

imehi kho, bhikkhave, pañcahaṅgehi samannāgatena bhikkhunā na upasampādetabbaṃ, na nissayo dātabbo, na sāmaṇero upaṭṭhāpetabbo.

Này các tỳ–khưu, tỳ–khưu nào hội đủ 5 điều này thì không xứng đáng trở thành thầy tiếp độ để truyền cụ túc giới cho người khác, không xứng đáng là người dạy dỗ Giáo lý cho bất kỳ ai, không xứng đáng cho Sa–di phục vụ.

5)_____ Pāthikavaggapāḷi, đoạn 345: Puna caparaṃ, āvuso, bhikkhu dhammakāmo hoti piyasamudāhāro, abhidhamme abhivinaye uḷārapāmojjo. Yaṃpāvuso, bhikkhu dhammakāmo hoti…pe… uḷārapāmojjo. Ayampi dhammo nāthakaraṇo [Tattha nāthakaraṇāti ‘‘sanāthā, bhikkhave, viharatha mā anāthā, dasa ime, bhikkhave, dhammā nāthakaraṇā’’ti (a. ni. 10.18) evaṃ akkhātā attano patiṭṭhākarā dhammā. – Pāthikavaggaṭṭhakathā, 345]

Lại nữa này chư hiền giả, vị tỳ–khưu nào yêu mến Giáo lý, ưa thích việc đàm luận Pháp, hân hoan với Abhidhamma và Thắng Luật, thì xứng đáng trở thành chỗ nương tựa vững chắc cho chính mình.

Pāthikavaggaṭṭhakathā, đoạn 345 giải thích các khái niệm trong đoạn văn ấy như sau:

‘‘Abhidhamme abhivinaye’’ti ettha dhammo abhidhammo, vinayo abhivinayoti catukkaṃ veditabbaṃ. Tattha dhammoti suttantapiṭakaṃ. Abhidhammoti satta pakaraṇāni. Vinayoti ubhatovibhaṅgā. Abhivinayoti khandhakaparivārā.

Khái niệm “Abhidhamma và Thắng Luật” ở đây nghĩa là Pháp, Abhidhamma và Luật, cả 3 được phân tích thành 4 khía cạnh như sau: Pháp ở đây chỉ cho Tạng Kinh, Abhidhamma chỉ cho 7 bộ Abhidhamma, Luật ở đây chính là Phân tích giới tỳ–khưu và Phân tích giới tỳ–khưu ni, Thắng Luật ở đây chính là Đại phẩm, Tiểu phẩm và Tập Yếu.

6)_____ Mūlapaṇṇāsapāḷi, đoạn 343: ‘idhāvuso sāriputta, dve bhikkhū abhidhammakathaṃ kathenti. Te aññamaññaṃ pañhaṃ pucchanti, aññamaññassa pañhaṃ puṭṭhā vissajjenti, no ca saṃsādenti, dhammī ca nesaṃ kathā pavattinī hoti. Evarūpena kho, āvuso sāriputta, bhikkhunā gosiṅgasālavanaṃ sobheyyā’’’ti.

“Ở đây, thưa hiền giả Sāriputta, hai tỳ–khưu đàm luận về Abhidhamma. Họ có thể hỏi và trả lời qua lại tất cả những câu hỏi về Abhidhamma của nhau mà không hề bị gián đoạn do không biết, cứ vậy, cuộc đàm luận pháp của họ được trôi chảy không ngừng nghỉ. Thưa hiền giả Sāriputta, hạng tỳ–khưu như vậy có thể làm chói sáng khu rừng Gosiṅga” (***)

7)_____ Chakkanipātapāḷi, đoạn 60: Tena kho pana samayena sambahulā therā bhikkhū pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkantā maṇḍalamāḷe sannisinnā sannipatitā abhidhammakathaṃ [abhidhammakathanti abhidhammamissakaṃ kathaṃ. – Chakkanipāta–aṭṭhakathā, 60] kathenti.

Lúc bấy giờ, sau khi đã thọ thực xong, chư trưởng lão họp nhau trong gian nhà hình tròn, cùng nhau đàm luận về nội dung của Abhidhamma.

8)_____ Tạng Luật, Pācittiyapāḷi

439. ‘‘Yo pana bhikkhu pātimokkhe uddissamāne evaṃ vadeyya – ‘kiṃ panimehi khuddānukhuddakehi sikkhāpadehi uddiṭṭhehi, yāvadeva kukkuccāya vihesāya vilekhāya saṃvattantī’ti, sikkhāpadavivaṇṇake pācittiya’’nti.

(…)

442. Anāpatti na vivaṇṇetukāmo, ‘‘iṅgha tvaṃ suttante vā gāthāyo vā abhidhammaṃ vā pariyāpuṇassu, pacchā vinayaṃ pariyāpuṇissasī’’ti bhaṇati, ummattakassa, ādikammikassāti.

439.“Khi giới bổn Pātimokkha đang được đọc tụng, vị tỳ–khưu nào nói như vầy: ‘Đọc tụng các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng này thì được ích lợi gì? Chúng chỉ đem lại sự ăn năn, sự bực bội, sự bối rối thôi!’ Khi có sự chê bai điều học như vật thì phạm tội pācittiya.”

(…)

442.Trường hợp vô tội khi: Vị nào không có ý định chê bai nhưng nói rằng: “Này, đến khi nào ngươi học thông thạo về các bài Kinh hoặc các bài kệ hoặc Abhidhamma rồi sẽ học thông thạo về Luật sau”; người bị điên, và người phạm tội lần đầu tiên (khi điều giới chưa được quy định). Những trường hợp này là vô tội.

9)_____ Pācittiyapāḷi, 1221: Pañhaṃ puccheyyāti suttante okāsaṃ kārāpetvā vinayaṃ vā abhidhammaṃ vā pucchati, āpatti pācittiyassa. Vinaye okāsaṃ kārāpetvā suttantaṃ vā abhidhammaṃ vā pucchati, āpatti pācittiyassa. Abhidhamme okāsaṃ kārāpetvā suttantaṃ vā vinayaṃ vā pucchati, āpatti pācittiyassa.

Sau khi đã thỉnh ý (để được cho phép) hỏi về Kinh, nhưng vị ni lại đi hỏi về Luật hoặc Abhidhamma thì phạm pācittiya (ưng đối trị). Sau khi đã thỉnh ý (để được cho phép) hỏi về Luật, nhưng vị ni lại đi hỏi về Kinh hoặc Abhidhamma thì phạm pācittiya. Sau khi đã thỉnh ý (để được cho phép) hỏi về Abhidhamma, nhưng vị ni lại đi hỏi về Kinh hoặc Luật thì phạm pācittiya

10)_____ Mahāniddesapāḷi, đoạn 89, khi giải thích về khái niệm: Lābhakamyā na sikkhati (nghĩa là người học tập, rèn luyện trong Pháp và Luật này không phải vì mục đích tìm kiếm lợi dưỡng), đã nói rằng: yāvadeva attadamatthāya attasamatthāya attaparinibbāpanatthāya suttantaṃ pariyāpuṇāti, vinayaṃ pariyāpuṇāti, abhidhammaṃ pariyāpuṇāti. Evampi na lābhakamyā sikkhati.

Ai học tập thấu đáo và thuộc lòng Kinh, Luật và Abhidhamma vì mục đích chế ngự, an tịnh, và giải thoát hoàn toàn cho bản thân thì đó là người học tập, rèn luyện trong Pháp và Luật này không phải vì mục đích tìm kiếm lợi dưỡng.

11)_____ Majjhimapaṇṇāsapāḷi, đoạn 173: Sace, āvuso, āraññiko bhikkhu abhidhamme abhivinaye pañhaṃ puṭṭho na sampāyati, tassa bhavanti vattāro. ‘Kiṃ panimassāyasmato āraññikassa ekassāraññe serivihārena yo ayamāyasmā abhidhamme abhivinaye pañhaṃ puṭṭho na sampāyatī’ti – tassa bhavanti vattāro. Tasmā āraññikena bhikkhunā abhidhamme abhivinaye yogo [ṭīkā: Yogoti ca paricayo uggaṇhavasena] karaṇīyo.

Này chư hiền, nếu tỳ–khưu sống ở rừng núi được hỏi về Abhidhamma và Luật mà không thể trả lời được, thì sẽ có người nói về vị đó như sau: “vị tôn giả này, khi có người hỏi về Abhidhamma và Luật thì lại không thể trả lời được, vậy tôn giả này sống độc cư nơi ẩn lâm như thế này ích lợi gì đây!” Sẽ có người nói về vị ấy như vậy.

Do vậy, tỳ–khưu sống ở rừng núi cần phải cố gắng học tập, nghiên cứu và nằm lòng Abhidhamma và Luật.

Majjhimapaṇṇāsa–aṭṭhakathā, đoạn 173 giải thích thêm rằng: Abhidhamme abhivinayeti abhidhammapiṭake ceva vinayapiṭake ca pāḷivasena ceva aṭṭhakathāvasena ca yogo karaṇīyo.

Trong Chánh văn, khái niệm Abhidhamma chỉ cho Tạng Abhidhamma, khái niệm Abhivinaya chỉ cho Tạng Luật, và sự học tập, nghiên cứu này phải dựa trên cả Chánh tạng và Chú giải.

____B/. Giờ chúng ta giải quyết luận điệu của những kẻ rối Đạo (vitaṇḍavādī):

1). Có những kẻ ngụy biện rằng: “nếu nói Tạng Abhidhamma được kết tập vào Kỳ Kết Tập Kinh Điển Lần thứ 1, thì tại sao không thấy nhắc đến ở Pañcasatikakkhandhakaṃ (Chương Năm Trăm Vị) trong Cūḷavaggapāḷi (Tiểu Phẩm) của Tạng Luật, vốn là phần Chánh tạng (pāḷi) duy nhất có miêu tả về các sự kiện của Kỳ Kết Tập Kinh Điển Lần thứ 1?”

–>> chúng ta thấy rõ nội dung về việc miêu tả quá trình Kết Tập trong Pañcasatikakkhandhakaṃ chỉ là những tình tiết đại biểu chớ không nói lên hết toàn bộ quá trình Kết Tập trong suốt 8 tháng!

Điển hình như việc miêu tả sự kiện Kết tập Luật của thánh Upāli, trong bản văn chỉ nói đến hết 4 pārājika, hơn nữa việc trình bày cũng chỉ có vài dòng. Vậy nếu theo cách hiểu của những kẻ rối Đạo kia, chẳng lẽ bản văn miêu tả như vậy thì phần còn lại của Tạng Luật hiện nay như 13 saṅghādisesa, 2 aniyata, 30 nissaggiya,…, là “ngụy tạo” sao!

Hoặc như theo trình tự Kết tập Luật, rõ ràng bản văn miêu tả việc thánh Upāli bắt đầu bằng việc kết tập điều pārājika thứ nhất, vậy tại sao bây giờ nội dung đầu tiên trong Tạng Luật lại là Chương Verañja!

Hay như sự kiện Kết tập Pháp của thánh Ānanda, trong bản văn chỉ nói đến 2 bài Kinh đầu tiên của Trường Bộ là Brahmajālasuttaṃ và Sāmaññaphalasuttaṃ. Vậy nếu theo cách hiểu của những kẻ rối Đạo kia, chẳng lẽ bản văn miêu tả như vậy nghĩa là Trường Bộ chỉ có duy nhất 2 bài Kinh sao, rồi phần còn lại của 4 trong 5 bộ (nikāya) ở đâu ra!

>>>> thế nên, chúng ta phải hiểu những tình tiết trong Chánh văn của Pañcasatikakkhandhakaṃ chỉ là những tình tiết đại biểu, có rất nhiều nội dung được kết tập nhưng không được đề tên. Chúng ta không thể chỉ dựa vào những tình tiết đại biểu như vậy để bác bỏ những gì không được nhắc đến, nếu làm vậy, chẳng khác nào chúng ta chỉ chấp nhận 4 pārājika và 2 bài Kinh đầu tiên của Trường Bộ, còn lại bỏ hết sao.

>>>> từ đây, khi đọc đến câu nói trong Cūḷavaggapāḷi, đoạn 440 rằng:

Eteneva upāyena pañcapi nikāye pucchi. Puṭṭho puṭṭho āyasmā ānando vissajjesi.

Bằng chính phương thức ấy, đại đức Mahākassapa đã hỏi về năm bộ kinh (nikāya). Mỗi khi được hỏi, đại đức Ānanda đã trả lời.

––>>> Chúng ta hiểu rằng thánh Ānanda đã kết tập luôn cả Abhidhamma trong Tiểu Bộ, là 1 trong 5 bộ (nikāya), mặc dầu chi tiết này không được nêu ra.

2). Lại nữa, có những kẻ rối Đạo chống báng Tạng Abhidhamma vì lý do là cách trình bày của Tạng Abhidhamma không giống Tạng Kinh ở chỗ không có thời gian, không có địa điểm, không có người thưa hỏi, không có cụm từ ‘Evaṃ me sutaṃ’,…

Về vấn đề này, chúng ta thấy có rất nhiều phần trong Tạng Luật cũng không có thông tin về thời gian và địa điểm, cũng như thế, trong Tạng Kinh cũng có rất nhiều bài Kinh, Phẩm kinh trong Tăng Chi và Tương Ưng, hay một số bài Kinh trong Tiểu Tụng (như Ratanasuttaṃ, Mettasuttaṃ, Tirokuṭṭasuttaṃ), hoặc những phần Kinh trong Tiểu Bộ (như Dhammapadapāḷi, Itivuttakapāḷi, Suttanipātapāḷi,…) cũng không có thời gian, không có địa điểm, không có người thưa hỏi, không có cụm từ ‘Evaṃ me sutaṃ’. Muốn biết những phần Chánh tạng ấy được thuyết ở đâu, khi nào, duyên cớ ra làm sao,… thì người đọc phải tìm hiểu trong từng phần Chánh sớ của các bộ Kinh đó.

Ở đây cũng vậy, muốn biết nhân duyên để Đức Phật thuyết Tạng Abhidhamma thì chúng ta phải tìm vào các bản Chánh sớ, như:

– Dhammapada–aṭṭhakathā, chương 14 (Buddhavaggo), đoạn 2 (Devorohaṇavatthu);

– Aṭṭhasālinī, chương Nidānakathā;

– Kathāvatthu–aṭṭhakathā, chương Nidānakathā;

– Uparipaṇṇāsa–aṭṭhakathā, đoạn 286;

– Suttanipāta–aṭṭhakathā, đoạn 962;

– Petavatthu–aṭṭhakathā, đoạn 329; …

Các bản Chánh sớ ấy đều thống nhất trong ghi chép về duyên sự, địa điểm và thời gian thuyết Tạng Abhidhamma như sau (ai muốn thì vui lòng theo dấu của các bản Chánh sớ tôi đã nêu để tìm đọc, ở đây, tôi chỉ trích dẫn vài đoạn có liên quan):

Tāvatiṃsabhavane paṇḍukambalasilāyaṃ vassaṃ upagantvā mātu abhidhammapiṭakaṃ desetuṃ gatoti.

Ngồi trên ngai tòa Paṇḍukambala ở tận cung trời Tāvatiṃsa, Đức Thế Tôn sẽ trải qua mùa mưa trên đó và thuyết Abhidhamma để tế độ mẫu thân của Ngài

Atha satthā devaparisāya majjhe nisinno mātaraṃ ārabbha ‘‘kusalā dhammā, akusalā dhammā, abyākatā dhammā’’ti abhidhammapiṭakaṃ paṭṭhapesi.

Để đền đáp ân nuôi dưỡng của mẫu thân, giữa chúng thiên nhân, Ngài đã bắt đầu thuyết Abhidhamma như sau: “kusalā dhammā, akusalā dhammā, abyākatā dhammā…”

Evaṃ tayo māse nirantaraṃ abhidhammapiṭakaṃ kathesi.

Cứ như thế, Ngài đã thuyết giảng Abhidhamma trong suốt 3 tháng an cư

3). Lại nữa, có những kẻ rối Đạo chống báng Tạng Abhidhamma vì lý do văn phong và ngữ khí trong cách trình bày của Abhidhamma không giống Tạng Kinh.

i. Về vấn đề này, trước hết, chúng ta phải biết rằng Abhidhamma có tận 3 version, 1 bản là Đức Phật thuyết cho chư thiên khi Ngài ngự trên Tāvatiṃsa trong suốt 3 tháng an cư; 1 bản được Đức Phật thuyết cách tóm tắt cho tôn giả Sāriputta và 1 bản do chính tôn giả Sāriputta thuyết cách rộng rãi lại trong Tăng chúng. Từ các bản Chánh sớ (ở phần B.2) được nêu bên trên, chúng ta tìm thấy chứng cớ cho điều này như sau:

Kathento pana bhikkhācāravelāya ‘‘yāva mamāgamanā ettakaṃ nāma dhammaṃ desetū’’ti nimmitabuddhaṃ māpetvā himavantaṃ gantvā nāgalatādantakaṭṭhaṃ khāditvā anotattadahe mukhaṃ dhovitvā uttarakuruto piṇḍapātaṃ āharitvā mahāsālamāḷake nisinno bhattakiccaṃ akāsi.

(Chúng ta biết rằng tuy trải qua 3 tháng hạ trên Tāvatiṃsa, thế nhưng cơ thể vật lý của Đức Thế Tôn vẫn cần phải giải quyết những nhu cầu cá nhân của con người, đương khi cơ thể của chư thiên thì không cần, ít nhất là trong khoảng thời gian đó), thế nên khi đến giờ đi khất thực thì Ngài sẽ tạo ra 1 vị hóa Phật thế chỗ và chú nguyện rằng vị hóa Phật này sẽ tiếp tục thuyết Pháp cho đến khi Như–Lai trở về. Sau đó Ngài hiện đến hồ Anotatta ở dãy núi Himavā để làm vệ sinh cá nhân rồi đến xứ Uttarakuru để khất thực và trở lại đó để thọ thực.

Sāriputtatthero tattha gantvā satthu vattaṃ karoti. Satthā bhattakiccapariyosāne, ‘‘sāriputta, ajja mayā ettako nāma dhammo bhāsito, tvaṃ attano antevāsikānaṃ bhikkhūnaṃ vācehī’’ti therassa kathesi.

Sau khi Ngài thọ thực xong thì tôn giả Sāriputta đến hầu Ngài và được nghe Đức Phật thuyết lại nội đung mà Ngài đã nói trong thời gian trước đó, và nhận lệnh Ngài đem nội dung đó quảng thuyết lại cho các đệ tử tùy tùng của tôn giả.

––>>> Như vậy, phiên bản Abhidhamma hiện nay chúng ta có chính là phần được tôn giả Sāriputta giảng lại cho Tăng chúng. Đây cũng là lý do vì đâu văn phong và ngữ khí của Abhidhamma rất giống những bài Kinh như Sammādiṭṭhisuttaṃ, Saṅgītisuttaṃ, Dasuttarasuttaṃ, hay những bộ Kinh như Mahāniddesapāḷi, Cūḷaniddesapāḷi, Paṭisambhidāmaggapāḷi,… vốn là những bài Kinh, bộ Kinh do chính ngài Sāriputta thuyết giảng.

––>>> hơn nữa, Sau khi Đức Phật trở về từ trời Tāvatiṃsa, Ngài có tham gia giảng dạy Abhidhamma cùng tôn giả Sāriputta, thế nên nếu nói Tạng Abhidhamma hiện nay chúng ta đang học là hoàn toàn do tôn giả Sāriputta thuyết lại cũng không đúng, có 1 phần quan trọng do chính Đức Phật thuyết ngay tại thế gian này, chúng ta sẽ tìm hiểu sự kiện này ở PHẦN 2.

ii. Thứ nữa, chúng ta thấy thể thức thuyết Pháp theo cách song đối của Bộ Yamakapāḷi (bộ thứ 6 trong 7 bộ hợp thành Tạng Abhidhamma) cũng là thể thức trình bày của những bài Kinh như: Sammāparibbājanīyasuttaṃ (Suttanipātapāḷi từ đoạn 361 đến đoạn 377); Kalahavivādasuttaṃ (Suttanipātapāḷi từ đoạn 868 đến đoạn 883); Mahābyūhasuttaṃ (Suttanipātapāḷi từ đoạn 901 đến đoạn 920);… vốn là những bài Kinh mà Đức Phật thuyết theo hình thức vấn đáp với chính vị hóa Phật [nimmitabuddha] của mình.

iii. Mặt khác, chúng ta biết rằng (đa phần) nội dung trong Tạng Luật và Tạng Kinh là pháp chế định nên văn phong gần như là văn nói, còn (đa phần) nội dung trong Tạng Abhidhamma có tính cách chuyên môn hơn nên văn phong không thể giống như 2 Tạng còn lại được.

––>>> Thật ra khi phải trình bày hay giải thích các khái niệm có tính cách chuyên môn thì Tạng Luật và Tạng Kinh cũng sử dụng cách trình bày như Abhidhamma mà thôi, chúng ta có thể so sánh các đoạn sau:

(Tạng Luật) Pārājikapāḷi, đoạn 45: Yo panāti yo yādiso yathāyutto yathājacco yathānāmo yathāgotto yathāsīlo yathāvihārī yathāgocaro thero vā navo vā majjhimo vā. Eso vuccati ‘yo panā’ti.

(Tạng Abhidhamma) Dhammasaṅgaṇīpāḷi, Chương cittuppāda, đoạn 23: Katamā tasmiṃ samaye sammāsati hoti? Yā tasmiṃ samaye sati anussati paṭissati sati saraṇatā dhāraṇatā apilāpanatā asammussanatā sati satindriyaṃ satibalaṃ sammāsati – ayaṃ tasmiṃ samaye sammāsati hoti.

(Tạng Kinh) Uparipaṇṇāsapāḷi, đoạn 136: Katamā ca, bhikkhave, sammādiṭṭhi ariyā anāsavā lokuttarā maggaṅgā? Yā kho, bhikkhave, ariyacittassa anāsavacittassa ariyamaggasamaṅgino ariyamaggaṃ bhāvayato paññā paññindriyaṃ paññābalaṃ dhammavicayasambojjhaṅgo sammādiṭṭhi maggaṅgaṃ – ayaṃ vuccati, bhikkhave, sammādiṭṭhi ariyā anāsavā lokuttarā maggaṅgā.

––>>> Và ngược lại, khi trình bày về các pháp chế định, Chánh văn của Tạng Abhidhamma lại sử dụng văn phong nói như 2 Tạng còn lại

(Tạng Kinh) Majjhimapaṇṇāsapāḷi, đoạn 182: Katamo ca, bhikkhave, puggalo ubhatobhāgavimutto? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo ye te santā vimokkhā atikkamma rūpe āruppā te kāyena phusitvā viharati paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti.

(Tạng Abhidhamma) Puggalapaññattipāḷi, phần Niddeso, đoạn 24 Katamo ca puggalo ubhatobhāgavimutto? Idhekacco puggalo aṭṭha vimokkhe kāyena phusitvā viharati; paññāya cassa disvā āsavā parikkhīṇā honti – ayaṃ vuccati puggalo ‘‘ubhatobhāgavimutto’’.

––>>> Rất tiếc là vấn đề này phải đọc trực tiếp bằng Pāḷi chứ đọc bằng bản dịch thì không thể thấy được vì nó thuộc về Ngôn ngữ học chứ không phải nội dung bản văn.

iv. Thêm nữa, liên quan đến vấn đề này, có những kẻ đặt ra nghi vấn tại sao Đức Phật không đợi về đến cõi người rồi đích thân Ngài thuyết lại cho Tăng chúng, như vậy không phải thuận lẽ thường hơn sao!

Về vấn đề này, chúng ta biết rằng tất cả Thanh văn có thể giải thoát chia thành 2 hạng, là Buddhavineyya và Sāvakavineyya. Pāthikavaggaṭṭhakathā, đoạn 350 giải thích cho chúng ta 2 khái niệm đó như sau:

Buddhavineyyā pana sāvakā bodhetuṃ na sakkonti.

Buddhavineyya là hạng người bắt buộc phải do chính Đức Phật thuyết Pháp tế độ chứ không thể là ai khác ngoài Ngài

Sāvakavineyyā nāma ye buddhānampi dhammadesanāya bujjhanti sāvakānampi.

Sāvakavineyya là hạng người có thể giải thoát qua Pháp thoại do Đức Phật hoặc đệ tử của Ngài thuyết.

Chúng ta biết rằng, thường đối với hạng Sāvakavineyya thì Đức Phật luôn để cho các Thánh đệ tử đi thuyết Pháp chứ không nhất thiết phải phiền hà đến Ngài, như đoạn Chánh sớ tiếp theo có nói như sau:

Sāvakavineyyabhāvaṃ pana etesaṃ ñatvā katarassa bhikkhuno desanāya bujjhissantīti olokento sāriputtassāti disvā therassa santikaṃ pesesi. Thero te bhikkhū pucchi ‘‘satthu santikaṃ gatattha āvuso’’ti. ‘‘Āma, gatamha satthārā pana amhe tumhākaṃ santikaṃ pesitā’’ti.

Khi biết nhóm người này thuộc hạng Sāvakavineyya, Đức Thế Tôn đã suy xét xem ai có thể thuyết Pháp cho họ giác ngộ và Người biết đó là thánh Sāriputta nên đã sai họ đến gặp tôn giả. Khi thấy họ đi đến, thánh Sāriputta đã hỏi họ “các vị đã đến yết kiến Bậc Đạo Sư chưa?”, họ đáp rằng: “vâng thưa tôn giả, chúng con đã đến yết kiến Bậc Đạo Sư, nhưng Đức Thế Tôn lại sai chúng con đến với Ngài”

Cũng vậy, khi rà soát lại các bản Chánh sớ (ở phần B.2), chúng ta thấy Đức Phật cũng muốn chính tôn giả Sāriputta quảng diễn lại Tạng Abhidhamma đến cho Tăng chúng qua câu nói:

‘‘sāriputta, ajja mayā ettako nāma dhammo bhāsito, tvaṃ attano antevāsikānaṃ bhikkhūnaṃ vācehī’’ti

“này Sāriputta, đây là những gì Ta đã thuyết giảng, hãy giảng giải lại cho chúng tỳ–khưu đệ tử của con”

Tiền lệ này không phải chỉ xảy ra với Tạng Abhidhamma, trong Tạng Kinh có rất nhiều bài Kinh được thuyết giảng bới các vị Thánh đệ tử của Đức Thế Tôn, gồm cả bậc Hữu học và bậc Vô học

4). Lại nữa, có những kẻ rối Đạo cho rằng sự kiện Đức Phật lên cung trời Tāvatiṃsa để thuyết Tạng Abhidhamma chỉ được miêu tả lại trong các bản Chánh sớ nên không đáng tin.

––>>> Thật ra sự kiện này không chỉ được miêu tả lại trong Chánh sớ (aṭṭhakathā) mà còn có trong cả Chánh tạng (pāḷi) nữa:

i. Trước hết, sự kiện Đức Phật lên trời để thuyết Tạng Abhidhamma và sau đó trở xuống thế trần, theo Chánh sớ là thông lệ của Chư Phật quá khứ, cũng được ghi chép lại trong Buddhavaṃsapāḷi, cụ thể:

Chương 3: Dīpaṅkarabuddhavaṃso (sử liệu về Đức Phật Dīpaṅkara), câu 9:

Yadā ca devabhavanamhi, buddho dhammamadesayi;…

(Và khi Đức Phật thuyết giảng giáo pháp tại cung trời;…)

Chương 5: Maṅgalabuddhavaṃso (sử liệu về Đức Phật Maṅgala), câu 5: Surindadevabhavane, buddho dhammamadesayi;…

(Đức Phật đã thuyết giảng giáo pháp tại cung điện của vua trời;…)

Chương 8: Sobhitabuddhavaṃso (sử liệu về Đức Phật Sobhita), câu 5:

Tato parampi desente, marūnañca samāgame;… câu 11: Devaloke vasitvāna, yadā orohatī jino;…

(sau đó, khi Đức Phật thuyết giảng giữa thiên chúng;… vào lúc Đấng Toàn Thắng xuống thế sau khi đã cự ngụ tại cõi trời;…)

Chương 17: Dhammadassībuddhavaṃso (sử liệu về Đức Phật Dhammadassī), từ câu 4 đến câu 7:

Yadā sakko upāgañchi, sapariso vināyakaṃ;… Punāparaṃ yadā buddho, devato eti mānusaṃ;…

(Khi vua trời Sakka cùng chư thiên đến gặp Đấng Đạo Sư;… lần khác, khi Đức Phật từ thiên giới trở về cõi nhân loại;…)

Chương 25: Koṇāgamanabuddhavaṃso (sử liệu về Đức Phật Koṇāgamana), câu 5 đến câu 6:

Tato vikubbanaṃ katvā, jino devapuraṃ gato;

Vasate tattha sambuddho, silāya paṇḍukambale.

Pakaraṇe satta desento, vassaṃ vasati so muni;…

Sau khi tỏ mình bằng song thông, Đức Chiến Thắng đã ngự lên Tāvatiṁsa. Bậc Chánh Đẳng Giác ngồi lên ngai tòa của chúa trời Sakka và giảng dạy 7 bộ Abhidhamma cho chư thiên trong suốt mùa mưa.

Chương 26: Kassapabuddhavaṃso (sử liệu về Đức Phật Kassapa), câu 5 đến câu 6: Yamakaṃ vikubbanaṃ katvā, ñāṇadhātuṃ pakittayi;… Sudhammā devapure ramme, tattha dhammaṃ pakittayi;…

Sau khi hóa hiện song thông, Ngài đã nói về bản chất của trí tuệ;… Đức Phật đã ở trong giảng đường Sudhamma trên cõi Tāvatiṁsa để giảng dạy giáo pháp cho chư thiên;…

ii. Thứ nữa, những sự kiện có liên quan trong khoảng thời gian Đức Thế Tôn ở Tāvatiṃsa thuyết Tạng Abhidhamma còn được đề cập ở những phần Kinh văn khác như:

ii.a_ Uparipaṇṇāsapāḷi, đoạn 286:

‘‘Ekamidaṃ, bhikkhu, samayaṃ bhagavā devesu tāvatiṃsesu viharati pāricchattakamūle paṇḍukambalasilāyaṃ. Tatra bhagavā devānaṃ tāvatiṃsānaṃ bhaddekarattassa uddesañca [Uddesanti mātikaṃ] vibhaṅgañca [Vibhaṅganti vitthārabhājanīyaṃ] abhāsi –

‘‘Atītaṃ nānvāgameyya, nappaṭikaṅkhe anāgataṃ;

…’’ti.

Một thời, này tỳ–khưu, Thế Tôn ngự giữa chư thiên ở Tāvatiṃsa, Ngài ngồi trên ngai tòa Paṇḍukambala bên dưới cội cây Pāricchattaka. Tại đấy, Thế Tôn nói lên mẫu đề và lời phân tích về Nhất Dạ Hiền cho chư thiên ở đó:

“Quá khứ không truy tìm, tương lai không ước vọng;

…”

Nhất dạ hiền có nghĩa là 1 đêm an lành khi sống trọn vẹn trong tuệ quán vipassanā [Tattha bhaddekarattassāti vipassanānuyogasamannāgatattā bhaddakassa ekarattassa. – Uparipaṇṇāsa–aṭṭhakathā, 272] và người sống được 1 đêm như vậy được gọi là Nhất dạ hiền giả [Taṃ uddissa pavattiyā pana bhaddekarattasahacaraṇato bhaddekaratto. – Uparipaṇṇāsa–ṭīkā, 272]

Uparipaṇṇāsa–aṭṭhakathā, đoạn 272 giải thích cho chúng ta sự kiện ấy như sau:

Tatra bhagavāti tatra viharanto bhagavā yebhuyyena dasahi cakkavāḷasahassehi sannipatitāhi devatāhi parivuto mātaraṃ kāyasakkhiṃ katvā abhidhammapiṭakaṃ kathento gambhīraṃ nipuṇaṃ tilakkhaṇāhataṃ rūpārūpaparicchedakathaṃ paṭivijjhituṃ asakkontānaṃ devānaṃ saṃvegajananatthaṃ antarantarā bhaddekarattassa uddesañca vibhaṅgañca abhāsi.

Giữa sự câu hội của thiên chúng ở 10 ngàn thế giới, Đức Thế Tôn thuyết Tạng Abhidhamma để tế độ mẹ Ngài trở thành bậc thân chứng (kāyasakkhi), thế nhưng khi Ngài phân tích Danh Sắc đến tột cùng để hiển bày Tam Tướng thì có cơ số chư thiên không thể hiểu hết được nên Ngài đã thuyết lên mẫu đề và phân tích về Nhất Dạ Hiền để sách tấn họ.

ii.b_ Thêm nữa, trong các bản Chánh sớ (ở phần B.2) có miêu tả về 1 sự kiện trước khi Đức Phật bắt đầu thuyết Tạng Abhidhamma, đó là Đức Phật khuyên dạy thiên tử Aṅkura phải biết suy xét, tìm kiếm đối tượng xứng đáng hãy cúng dường [Evaṃ vutte satthā, ‘‘aṅkura, dānaṃ nāma viceyya dātuṃ vaṭṭati, evaṃ taṃ sukhettesu vuttabījaṃ viya mahapphalaṃ hoti. Tvaṃ pana na tathā akāsi, tena te dānaṃ mahapphalaṃ na jāta’’nti], sau thời Pháp đó, thì cả thiên tử Aṅkura và thiên tử Indaka đều chứng Dự Lưu [Desanāvasāne aṅkuro ca indako ca sotāpattiphale patiṭṭhahiṃsu – Dhammapada–aṭṭhakathā. 14.2]. Sự kiện này được miêu tả lại trong Chánh văn của Petavatthupāḷi, từ đoạn 257 đến đoạn 330:

(…)

317.

Tāvatiṃse yadā buddho, silāyaṃ paṇḍukambale;

Pāricchattakamūlamhi, vihāsi purisuttamo.

318.

Dasasu lokadhātūsu, sannipatitvāna devatā;

Payirupāsanti sambuddhaṃ, vasantaṃ nagamuddhani.

(…)

(…)

Khi Đức Phật ngồi lên ngai tòa Paṇḍukambala bên dưới cội cây Pāricchattaka trên cõi trời Tāvatiṃsa, chư thiên khắp 10 ngàn thế giới câu hội về đảnh lễ Ngài

5). Lại nữa, có những kẻ rối Đạo chống phá Abhidhamma, cụ thể là họ nghi ngờ rằng Bộ Kathāvatthupāḷi được kết tập vào Kỳ Kết Tập Kinh Điển Lần thứ 3 nên họ cho rằng Abhidhamma cũng là sản phẩm của Kỳ Kết Tập Lần thứ 3 chứ không phải Phật ngôn. Một số kẻ khác tin Abhidhamma là Phật ngôn nhưng lại cho rằng Abhidhamma chỉ có 6 Bộ chứ không phải 7 Bộ.

i. Về vấn đề này, trong các bản Chánh sớ, cụ thể là Aṭṭhasālinī, chương Nidānakathā đã nói rõ rằng Đức Phật thuyết Tạng Abhidhamma có 7 bộ như sau:

Pakaraṇaparicchedato panesa dhammasaṅgaṇīvibhaṅgadhātukathāpuggalapaññattikathāvatthuyamakapaṭṭhānānaṃ sattannaṃ pakaraṇānaṃ vasena ṭhito. Ayamettha ācariyānaṃ samānakathā.

Truyền thống Giáo hội, qua lời của các vị giáo thọ, luôn thống nhất rằng Chánh văn của Tạng Abhidhamma gồm đủ 7 bộ: Dhammasaṅgaṇi (Pháp Tụ), Vibhaṅga (Phân Tích), Dhātukathā (Chất Ngữ), Puggalapaññatti (Nhân Chế Định), Kathāvatthu (Ngữ Tông), Yamaka (Song Đối), và Paṭṭhāna (Vị Trí).

Tại sao lại có sự việc này, rõ ràng là ngài Moggaliputtatissa đã dùng Kathāvatthu để bóc tách và loại trừ tất cả những tà kiến của các lạc giáo vào Kỳ Kết Tập Kinh Điển Lần thứ 3, đây là điều mà Giáo sử, cụ thể là Dīpavaṃsa, chương 7, câu 54 đến 55 có ghi chép:

Sabbe’pi te bhinnavādā vilomā theravādato, tesañca niggahatthāya sakavādavibodhanaṃ.

Desesi thero abhidhammaṃ kathāvatthuppakaranaṃ, niggaho īdiso natthi paravādappamaddanaṃ.

Một sự kiện như thế chưa từng có trước đây, ngài Moggaliputtatissa đã quảng diễn Bộ Kathāvatthu để xiển dương Chánh pháp và loại bỏ những tà kiến, dị thuyết của các lạc giáo ly khai chống đối Giáo hội

Thế vậy thì chúng ta phải hiểu sự việc này như thế nào đây!

Chúng ta cùng xem Kathāvatthu–aṭṭhakathā, chương Nidānakathā giải thích vấn đề này:

Yamakapāṭihīrāvasānasmiñhi bhagavā tidasapure pāricchattakamūle paṇḍukambalasilāyaṃ vassaṃ upagantvā mātaraṃ kāyasakkhiṃ katvā devaparisāya abhidhammakathaṃ kathento dhammasaṅgaṇīvibhaṅgadhātukathāpuggalapaññattippakaraṇāni desayitvā kathāvatthudesanāya vāre sampatte ‘‘anāgate mama sāvako mahāpañño moggaliputtatissatthero nāma uppannaṃ sāsanamalaṃ sodhetvā tatiyasaṅgītiṃ karonto bhikkhusaṅghassa majjhe nisinno sakavāde pañca suttasatāni paravāde pañcāti suttasahassaṃ samodhānetvā imaṃ pakaraṇaṃ bhājessatī’’ti tassokāsaṃ karonto yā cesā puggalavāde tāva catūsu pañhesu dvinnaṃ pañcakānaṃ vasena aṭṭhamukhā vādayutti, taṃ ādiṃ katvā sabbakathāmaggesu asampuṇṇabhāṇavāramattāya tantiyā mātikaṃ ṭhapesi.

Sau khi tỏ mình bằng Song thông, Đức Thế Tôn ngự lên thiên quốc và trải qua mùa an cư trên đó. Ngồi trên ngai tòa Paṇḍukambala bên dưới cội cây Pāricchattaka, Ngài đã thuyết giảng 7 bộ Abhidhamma đến chư thiên, cách riêng là thân mẫu Ngài để tế độ bà trở thành bậc thân chứng. Khi thuyết đến Bộ Kathāvatthu, Đức Phật biết rõ rằng trong tương lai sẽ có 1 đệ tử của Ngài tên là Moggaliputtatissa, một tôn giả đại trí, người sẽ kết hợp 500 câu chính thống giáo và 500 câu dị giáo để kiện toàn Bộ Kathāvatthu hòng thanh tẩy Giáo hội khỏi các tà kiến nổi lên và tổ chức Kết tập Kinh Điển Lần thứ 3 sau đó. Để chuẩn bị cho sự kiện đó, Ngài đã thuyết ra những mẫu đề, bắt đầu với tà kiến đầu tiên là Puggalavāda (nhân ngữ) gồm 8 phương diện gói gọn trong 4 câu, mỗi câu chia thành 2 phần thuận nghịch, mỗi phần gồm 5 đoạn. Cứ như vậy, Ngài đã thiết lập đường hướng cho tất cả những luận điểm, nhưng chúng chỉ là mấu đề chứ không phải là những bài giảng hoàn chỉnh.

Athāvasesaṃ abhidhammakathaṃ vitthāranayeneva kathetvā vutthavasso suvaṇṇarajatasopānamajjhe maṇimayena sopānena devalokato saṅkassanagare oruyha sattahitaṃ sampādento yāvatāyukaṃ ṭhatvā anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbāyi.

Sau đó, Ngài tiếp tục thuyết nốt phần còn lại của Tạng Abhidhamma cho đến hết mùa mưa. Ngài bước xuống trên chiếc thang bằng châu báu ở giữa, một bên là thang vàng một bên là thang bạc, bắc từ cung trời xuống tận nơi thành Saṅkassa. Rồi sau khi hoàn tất công trình cứu độ của mình, là đem lại hạnh phúc bất tử cho chúng sinh, Ngài đã viên tịch.

>>>> như vậy, chúng ta thấy là tôn giả Moggaliputtatissa chỉ dựa vào những mẫu đề và đường hướng mà Đức Phật đưa ra để triển khai Kathāvatthu, chứ Ngài ấy không tự sáng tác ra những nội dung đó.

Aṭṭhasālinī cũng khẳng định điều này một lần nữa trong Chương Nidānakathā như sau:

Moggaliputtatissattheropi imaṃ pakaraṇaṃ desento na attano ñāṇena desesi, satthārā pana dinnanayena ṭhapitamātikāya desesi. Iti satthārā dinnanayena ṭhapitamātikāya desitattā sakalampetaṃ pakaraṇaṃ buddhabhāsitameva jātaṃ.

Khi quảng diễn Bộ Kathāvatthu, ngài Moggaliputtatissa không dựa vào trí tuệ của bản thân, nhưng là dựa những mẫu đề và đường hướng đã được Đức Phật thuyết ra trước đó. Chính vì Kathāvatthu được hình thành trên cương lĩnh của Đức Thế Tôn, nên nó được xem là Phật ngôn.

––>>> Tiền lệ này không phải chỉ xảy ra với Kathāvatthu, như Pāyāsisuttaṃ, Madhurasuttaṃ,.. vốn cũng là những bài Kinh do các vị tôn giả thuyết sau khi Đức Phật viên tịch nhưng vẫn được kể vào Chánh tạng.

ii.Liên quan đến vấn đề này, có những kẻ vô tri đặt ra câu hỏi rằng: “sự kiện ở Kỳ Kết Tập Kinh Điển Lần thứ 3 cách mốc thời gian Đức Phật viên tịch tận 218 năm, chẳng lẻ Ngài biết trước là sẽ có những điều gì diễn ra hay sao mà để lại những mẫu đề?”

––>>> kẻ ngu si nào thắc mắc điều này thì nghĩa là kẻ đó nghi ngờ Vị lai trí minh (Anāgataṃsañāṇa) của Đức Thế Tôn.

Chúng ta thấy trong Kinh điển có rất nhiều lần Đức Thế Tôn dùng khả năng này để thuyết lên những khải ngôn:

ii.a_ Pāthikavaggapāḷi, đoạn 107: Asītivassasahassāyukesu, bhikkhave, manussesu metteyyo nāma bhagavā loke uppajjissati arahaṃ sammāsambuddho vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā

Này các tỳ–khưu, khi tuổi thọ loài người đến 80 ngàn tuổi, có Thế Tôn tên là Metteyya sẽ ra đời, là vị Arahanta, Chánh Ðẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Ðiều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn

ii.b_ Uparipaṇṇāsapāḷi, đoạn 380: Bhavissanti kho panānanda, anāgatamaddhānaṃ gotrabhuno [nāmamattasamaṇāti attho] kāsāvakaṇṭhā dussīlā pāpadhammā.

Nhưng này Ānanda, trong thời gian tương lai sẽ có những kẻ tỳ–khưu giả danh với y ca–sa vàng quấn quanh cổ, sống theo ác giới, ác pháp.

––>>> nếu kẻ nào tỏ ra nghi ngờ Vị lai trí minh (Anāgataṃsañāṇa) của Đức Thế Tôn thì kẻ ấy phải giải thích được những đoạn Kinh văn như thế này. Và nếu kẻ ấy chấp nhận những đoạn Kinh trên là chính thống thì kẻ ấy cũng phải chấp nhận sự kiện Đức Phật thuyết mẫu đề của Kathāvatthu từ trước.

6). Lại nữa, có những kẻ rối Đạo dựa vào câu nói của Đức Phật khi Ngài giảng về 4 Đại cứ pháp (catumahāpadesa) trong Mahāvaggapāḷi, đoạn 187 và Catukkanipātapāḷi, đoạn 180, để chống phá và phủ nhận sự tồn tại của Tạng Abhidhamma.

Chúng ta biết rằng Catumahāpadesa (4 Đại cứ pháp) của Tạng Kinh là 1 trong những di ngôn cực trọng mà Đức Phật để lại trước khi Ngài viên tịch, Ṭīkā gọi nó là phương kế để chúng ta phân tích, xác định đâu là Phật ngôn [Pamīyati dhammo paricchijjati vinicchīyati etenāti pamāṇaṃ.] Nội dung chính của nó là Đức Phật yêu cầu chúng ta, sau khi Ngài viên tịch, có nghe được bất kỳ điều gì thì cũng phải so sánh lại với Kinh điển để xác định tính đúng đắn của nó, như sau:

Tāni ca sutte osāriyamānāni vinaye sandassiyamānāni sutte ceva osaranti, vinaye ca sandissanti, niṭṭhamettha gantabbaṃ – ‘addhā, idaṃ tassa bhagavato vacanaṃ; …’nti.

(những điều các ngươi tiếp thu) cần phải được đem đối chiếu với Kinh, so sánh với Luật. Chỉ khi nào những điều ấy hiện diện trong Kinh, tương ứng với Luật, thì các ngươi mới có thể kết luận rằng ‘điều này là Phật ngôn…’

–>> Những kẻ rối Đạo ấy căn cứ vào bản văn này để phủ nhận Abhidhamma vì không thấy Đức Phật nói rằng phải so sánh với Abhidhamma, chỉ thấy đề cập tới Kinh và Luật.

>>>> Về vấn đề này, trước hết, chúng ta thấy rằng việc hiểu bản văn Kinh điển dựa trên những gì được dịch ra mà hoàn toàn không có 1 chút kiến thức nào về Pāḷi, rồi từ đó đưa ra những suy diễn sai lệch về Giáo lý là việc làm hết sức ấu trĩ.

Chúng ta cùng xem Mahāvaggaṭṭhakathā và Mahāvaggaṭīkā, đoạn 188 giải thích vấn đề này ra sao:

Nếu những kẻ rối Đạo ấy cho rằng từ ‘sutta’ trong đoạn pāḷi về 4 Đại cứ pháp là chỉ cho Tạng Kinh và từ ‘vinaya’ trong đoạn pāḷi về 4 Đại cứ pháp là chỉ cho Tạng Luật, thì chúng sẽ vấp phải những mâu thuẫn sau đây:

– Mâu thuẫn thứ 1 (ở cách hiểu từ ‘sutta’):

Ettha ca suttanti vinayo. Yathāha – ‘‘kattha paṭikkhittaṃ? Sāvatthiyaṃ suttavibhaṅge’’ti (cuḷava. 457).

Từ ‘sutta’ còn được chỉ cho nội dung của Tạng Luật, chứng cớ được tìm thấy ở Tạng Luật, đơn cử như Cūḷavaggapāḷi, đoạn 457 như sau: “điều này bị bác bỏ ở đâu? Ở Sāvatthi, trong phần Phân tích giới bổn”

>>> Như vậy thì cách lý giải của những kẻ rối Đạo ấy đã mâu thuẫn do sự chồng chéo trong ý nghĩa văn tự.

Mâu thuẫn thứ 2 (ở cách hiểu từ ‘vinaya’):

Yathāha – ‘‘vinayātisāre’’ti. Evaṃ vinayapiṭakampi na pariyādiyati. Ubhatovibhaṅgā pana suttaṃ, khandhakaparivārā vinayoti evaṃ vinayapiṭakaṃ pariyādiyati.

Nếu nói Luật chỉ là bao gồm những lỗi phạm, những quy tắc đề ra thì chưa đủ. Tạng Luật phải kể luôn phần Lưỡng bộ phân tích (Phân tích giới tỳ–khưu + Phân tích giới tỳ–khưu ni), Hợp phần (Đại phẩm + Tiểu phẩm) và Tập yếu. Thế nhưng phần Ubhatovibhaṅga (Lưỡng bộ phân tích) lại được gọi là sutta. Ṭīkā giải thích lý do rằng vì phần nội dung đó giảng giải ý nghĩa của những mẫu đề trong Tạng Luật nên nó được gọi là ‘sutta’ [So hi mātikāsaññitassa suttassa atthasūcanato ‘‘sutta’’nti vattabbataṃ arahati.]

>>> Một lần nữa, cách lý giải của những kẻ rối Đạo ấy đã mâu thuẫn do sự chồng chéo trong ý nghĩa văn tự.

Mâu thuẫn thứ 3 (chúng tự mâu thuẫn với chính mình):

Asuttanāmakañhi buddhavacanaṃ nāma atthi. Seyyathidaṃ – jātakaṃ, paṭisambhidā, niddeso, suttanipāto, dhammapadaṃ, udānaṃ, itivuttakaṃ, vimānavatthu, petavatthu, theragāthā, therīgāthā, apadānanti.

Chúng ta biết rằng có rất nhiều phần Phật ngôn không được gọi tên là ‘sutta’ nhưng vẫn được kể vào Tạng Kinh, như Jātaka, Paṭisambhidā, Niddesa, Nipāta, Dhammapada, Udāna, Itivuttaka, Vimānavatthu, Petavatthu, Theragāthā, Therīgāthā, và Apadāna,..

>>> Nếu những kẻ rối Đạo ấy chấp nhận những phần kể trên, tuy không được gọi là ‘sutta’ nhưng vẫn được kể là Phật ngôn thì chúng cũng phải chấp nhận Abhidhamma, tuy không được gọi là ‘sutta’, vào Phật ngôn.

>>> Nếu những kẻ rối Đạo ấy không chấp nhận những phần kể trên là Phật ngôn thì chúng là kẻ chống báng Kinh điển, vì những phần đó đều thuộc vào Tạng Kinh.

>>>> Giờ chúng ta đến với câu trả lời về ý nghĩa của từ ‘sutta’ và ‘vinaya’ trong đoạn pāḷi về 4 Đại cứ pháp

Sudinnatthero pana – ‘‘asuttanāmakaṃ buddhavacanaṃ na atthī’’ti taṃ sabbaṃ paṭipakkhipitvā – ‘‘tīṇi piṭakāni suttaṃ, vinayo pana kāraṇa’’nti āha. [Ṭīkā: Vineti etena kileseti vinayo, kilesavinayanūpāyo, so eva ca naṃ karotīti kāraṇanti āha ‘‘vinayo pana kāraṇa’’nti.]

Tato taṃ kāraṇaṃ dassento idaṃ suttamāhari – ‘‘Ye ca kho tvaṃ, gotami, dhamme jāneyyāsi, ime dhammā virāgāya saṃvattanti…, visaññogāya…, apacayāya…, appicchatāya…, santuṭṭhiyā…, pavivekāya…, vīriyārambhāya…, subharatāya. Ekaṃsena, gotami, dhāreyyāsi – ‘eso dhammo, eso vinayo, etaṃ satthusāsana’nti’’ (a. ni. 8.53).

Tôn giả Sudinna đã bác bỏ tất cả cách hiểu về 2 từ ‘sutta’ và ‘vinaya’ của những kẻ rối Đạo như trên! Ngài nói rằng: “không có bất kỳ Phật ngôn nào mà không phải là ‘sutta’”, vì vậy từ ‘sutta’ phải được hiểu là toàn bộ Phật ngôn trong cả 3 Tạng giáo lý, còn từ ‘vinaya’ ở đây chỉ cho pháp hành. Ngài đưa ra dẫn chứng trong Tăng Chi, Chương 8 pháp, đoạn 53.

Chúng ta biết rằng trong Tăng Chi, Chương 8 pháp, đoạn 53, khi giảng về Bát đoán Phật pháp cho di mẫu Gotamī, bấy giờ đã là 1 tỳ–khưu ni, Đức Thế Tôn chỉ nhắc đến 8 tính chất chứ không đả động gì đến Kinh hay Luật, 8 tính chất đó được trình bày như sau: Giáo lý nào hướng đến ly tham (virāga), ly hệ phược (visaṃyoga), đoạn giảm (apacaya), thiểu dục (appiccha), tri túc (santuṭṭhi), độc cư (paviveka), tinh tấn (vīriya), dễ nuôi (subhara) thì đó chính là Pháp, đó chính là Luật, đó chính là Lời của Bậc Đạo Sự.

Tasmā sutteti tepiṭake buddhavacane otāretabbāni. Vinayeti etasmiṃ rāgādivinayakāraṇe saṃsandetabbānīti ayamettha attho.

Chính vì vậy, Chánh sớ khẳng định lại ý nghĩa của từ ‘sutta’ ở đây chính là Phật ngôn trong cả 3 Tạng giáo lý, còn từ ‘vinaya’ ở đây chính là pháp hành dẫn đến đoạn tận tham, đoạn tận sân, đoạn tận si.

[liên quan đến việc khái niệm ‘vinaya’ chỉ cho pháp hành thì mời mọi người tìm hiểu về Giới luật đoạn trừ (pahānavinaya) và Giới luật thu thúc (saṃvaravinaya) tại những phần Kinh điển sau đây: Mūlapariyāyasuttavaṇṇanā, 2 (Chú giải Kinh Pháp Môn Căn Bản, đoạn 2); Khandhavagga–aṭṭhakathā, 1 (Chú giải Tương Ưng Uẩn, đoạn 1); Suttanipāta–aṭṭhakathā, 1 (Chú giải Kinh Tập, đoạn 1); Cūḷaniddesa–aṭṭhakathā, 88 (Chú giải Tiểu Diễn Giải, đoạn 88); Paṭisambhidāmagga–aṭṭhakathā, Mahāvaggo, 130 (Chú giải Vô Ngại Giải Đạo, Đại phẩm, đoạn 130); Aṭṭhasālinī, 1007 (Chú giải Bộ Pháp Tụ, đoạn 1007)]

____________hết PHẦN 1:

(*): Kaccāyanabyākaraṇaṃ, 663 hoặc Padarūpasiddhi, 673: visesena taṇḍati cāleti paresaṃviññūnaṃ hadayaṃ kampetīti vitaṇḍo.

Sīlakkhandhavaggaabhinavaṭīkā, 17: aññamaññaviruddhaṃ, saggamokkhaviruddhaṃ vā kathaṃ tanonti etthāti vitaṇḍo, viruddhena vā vādadaṇḍena tāḷenti ettha vādinoti vitaṇḍo

(**): ‘na nissayo’ nghĩa là vị tỳ–khưu này không xứng đáng là nơi y cứ. Chánh sớ giải thích: nghĩa là vị tỳ–khưu này không xứng đáng trở thành thầy giáo thọ (ācariya), trong đó ācariya (thầy giáo thọ) ám chỉ người dạy Giáo lý cho mình [ādito cāreti sikkhāpetīti ācariyoti katvā, ṇyo – Abhidhānappadīpikāṭīkā, 411]

(***): đoạn Kinh này sẽ được giải thích rõ hơn ở PHẦN 2

____________ (to be continued)

Bài viết liên quan

  • Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
  • Tôi nguyện, Web, FB
  • Tại sao Myanmar, Web, FB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB

Bài viết trên Facebook, 15/12/2024