Chánh mạng và tà mạng của vị tỳ khưu xuất gia
CHÁNH MẠNG VÀ TÀ MẠNG CỦA VỊ TỲ KHƯU XUẤT GIA
https://www.facebook.com/share/p/18BpVoX6vb/
–––––––––––––––
Không giống như người tại gia cư sĩ với bảy quy tắc cư xử theo chánh mạng vị Tỳ–kheo trong Phật Giáo có một tầm giới luật rộng rãi hơn ràng buộc họ.
Vị Tỳ–kheo không được phép hỏi xin thức ăn, y áo, hay cốc liêu trừ phi người mình hỏi xin là thân quyến hay một người trước đó đã có lời thỉnh mời.
Vị Tỳ–kheo đó hay bất cứ vị Tỳ–kheo nào khác cũng không được phép dùng những vật được nhận theo cách này (tức vật hỏi xin không đúng luật).
Hỏi xin cúng dường thẳng thừng như kiểu ngày nay người ta thường làm rất không hợp với tư cách của một vị Tỳ–kheo.
Một vị Tỳ–kheo thậm chí còn không được ra dấu hay thực hiện những lời bình phẩm gián tiếp dẫn đến một người cư sĩ phải cúng dường thức ăn hay y phục cho họ.
Nói chung, dùng bất cứ thứ gì mà vị Tỳ–kheo có được do nài xin, ra dấu hay nói ám chỉ một cách khéo léo là tà mạng.
Hơn nữa, bất cứ nỗ lực nào mà vị Tỳ–kheo thực hiện để làm cho mình trở thành thân thiết với người nam hay nữ cư sĩ hay để làm cho mình được mến chuộng đối với họ như cho hoa, cho trái cây, hay thức ăn,…kể như đã phạm vào một tội gọi là ‘làm bại hoại cư sĩ’ (kuladūsana 败坏居士, bại hoại cư sĩ) nghĩa là đã huỷ hoại đức tin của người cư sĩ.
Cho hoa, cho trái cây, hay thức ăn v.v… có thể giúp vị Tỳ–kheo giành được tình cảm của người thọ nhận nhưng nó sẽ không góp phần vào đức tin của họ.
Vì lòng kính trọng của họ đối với một vị Tỳ–kheo chỉ có thể trở thành đức tin thực sự nếu nó là do giới đức trong sạch và các phẩm hạnh khác của vị ấy mà thôi.
Vì thế bất kỳ cố gắng nào nhằm nuôi dưỡng sự thân thiết bằng cách cho hoa, trái cây,…đều làm tổn hại đến đức tin chân chánh ban đầu mà đời sống giới đức của vị Tỳ–kheo đã tạo ra cho người cư sĩ.
Người tại gia cư sĩ lúc ấy rất có thể chỉ kính trọng vị sư đã cho họ hoa. Họ sẽ không quan tâm đến các vị sư giới đức khác.
Trong thực tế, cái gọi là lòng kính trọng đối với vị sư hào phóng không gì khác hơn sự yêu mến mà chúng ta thường thấy giữa những người bình thường vì lẽ nó ít liên quan đến đức tin.
Vì thế thật là không thích hợp đối với một vị Tỳ–kheo để cho hoa, thức ăn,…đến những người Phật tử, để nịnh nọt họ, để phục vụ họ, để chăm lo cho con cái của họ, để làm thuốc trị bịnh cho họ, để xem tử vi, tướng số cho họ, hay làm bất cứ tà mạng nào khác (gây) bại hoại đức tin người cư sĩ.
Và cũng là tà mạng nếu sử dụng những thứ vật dụng mà một vị sư có được bằng những cách vừa nêu.
Vị Tỳ–kheo cũng nên tránh thái độ đạo đức giả đối với những vật dụng, thiền, đạo quả,…và sự hành thiền.
Một số vị Tỳ–kheo thường làm ra vẻ ta đây là người có ít sự tham muốn đối với y áo hoặc thực phẩm mà những thí chủ của họ cúng dường..
Họ sẽ từ chối không nhận nó, “Bần Tăng không cần những lá y tốt và thức ăn ngon đâu như vầy đâu. Bần Tăng vừa lòng đối với những tấm vải quăng bỏ và thức ăn mà Bần Tăng khất thực được đủ rồi.” Sự từ chối của họ làm cho đức tin của những tín đồ mạnh mẽ hơn và thường xuyên thỉnh cầu họ chấp nhận sự cúng dường hơn.
Rồi sau đó họ chấp nhận và không bao giờ từ chối sự cúng dường của những người đệ tử tín tâm mà họ đã khéo tạo ấn tượng về sự chán ghét rõ ràng của họ đối với những thứ đồ tốt của cuộc sống như vậy.
Đây là cách nuôi mạng bất chánh bởi những người tự cho mình là người tu khổ hạnh.
Một vị sư có thể nói, “Một vị Tỳ–kheo mặc y như thế này hay một vị tỳ–kheo sống ở một nơi như thế này thường là một Bậc Thánh, một Bậc A–la–hán hay một người đã đắc thiền và có các năng lực thần thông đấy.” Sự mô tả y theo lối sống của người nói và cách họ mặc y. Đây là loại tà mạng bởi một vị sư đạo đức giả.
Một số vị sư không hành thiền nhưng họ cư xử một cách thanh thản, nhẹ nhàng giống như một thiền giả. Họ đi, đứng, nằm, ngồi, co, duỗi chân tay giống như một hành giả đang an trú trong thiền hoặc có định. Đây cũng là tà mạng bằng lừa đảo.
Một số làm ra vẻ như có thể đọc được tâm của người khác. Nếu một vị sư đang thuyết pháp mà nói, “Này! Người phụ nữ ở đằng kia đã phóng tâm rồi phải không. Hãy chú ý và thực hành hơi thở đi,” Thực sự có thể có một số người nữ đã phóng tâm trong hội chúng này. Và những người phụ nữ ấy thế nào cũng sẽ rất ấn tượng và đánh giá cao về nhà sư ấy.
Hay nếu một vị sư nói rằng ông đã từng làm vua và người phụ nữ như vầy như vầy là hoàng hậu của ông trong tiền kiếp, vị sư ấy sẽ được những tín đồ của mình tin rằng có thần thông. Đây là tà mạng bằng lừa dối.
Một vị Tỳ–kheo không nên dùng bất kỳ thứ gì vốn được cúng dường bởi một người tại gia cư sĩ đã bị đánh lừa như vậy.
Vị ấy chỉ nên sống nhờ vào những vật mình có được bằng chánh mạng. Nếu không có người cúng dường vật thực cho vị ấy, vị ấy nên đi khất thực mà ăn.
Nếu không có những tấm y thích hợp, vị ấy nên tìm những tấm vải quăng bỏ.
Hay vị ấy nên đứng trước cửa nhà của một người cư sĩ nào đó và khi được hỏi vị ấy cần thứ gì, vị ấy nên bày tỏ ước muốn có một bộ y của mình.
Việc nói những điều mình muốn đáp lại một lời hỏi thăm (sư cần gì) như vậy không phải là không thích hợp. Tìm kiếm những nhu cầu của cuộc sống qua sự diễn đạt của thân (thân biểu tri, kāyaviññatti) là chánh mạng.
Nói chung, thức ăn, y phục,…mà một người cư sĩ cúng dường vì lòng kính trọng đối với đời sống tu học và những bài giảng pháp của một vị sư là trong sạch vì lẽ ấy vị sư nhận nó một cách hợp pháp.
Vì thế Đức Phật thúc giục các hàng đệ tử của ngài hãy kiếm sống một cách chân chánh.
– Hết trích dẫn –
Nguồn trích dẫn: GIẢNG GIẢI KINH ĐOẠN GIẢM – MAHASI SAYADAW
–––––––––––––––
CHÁNH KINH: TRI TÚC BIẾT ĐỦ
–––––––––––––––
1)… Trú ở Sàvatthi.
2) – Tri túc, này các Tỷ–kheo, là Kassapa này, với bất cứ loại y nào, và tán thán hạnh tri túc với bất cứ loại y nào; không vì y làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được y, vị này không có dao động. Và nếu được y, vị này dùng y không tham lam, không say đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
3) Tri túc, này các Tỷ–kheo, là Kasssapa này, với bất cứ đồ ăn khất thực nào, tán thán hạnh tri túc với bất cứ đồ ăn khất thực nào; không vì đồ ăn khất thực, làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được đồ ăn khất thực, vị này không có dao động. Và nếu được đồ ăn khất thực, vị này dùng đồ ăn khất thực ấy, không tham lam, không say đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
4) Tri túc, này các Tỷ–kheo, là Kassapa này, với bất cứ loại sàng tọa nào, và tán thán hạnh tri túc với bất cứ loại sàng tọa nào; và không vì sàng tọa, làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được sàng tọa, vị này không có dao động. Và nếu được sàng tọa, vị này dùng sàng tọa ấy, không tham lam, không say đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
5) Tri túc, này các Tỷ–kheo, là Kassapa này, với bất cứ thuốc men trị bệnh nào. Và vị này tán thán hạnh tri túc với bất cứ loại thuốc men trị bệnh nào; và không vì duyên với thuốc men trị bệnh, làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được thuốc men trị bệnh, vị này không có dao động. Và nếu được thuốc men trị bệnh, vị này dùng thuốc men trị bệnh ấy, không tham lam, không say đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ.
6) Do vậy, này các Tỷ–kheo, hãy học tập như sau: “Chúng tôi sẽ tri túc với bất cứ loại y nào, và chúng tôi sẽ là người tán thán hạnh tri túc với bất cứ loại y nào. Và không vì y, chúng tôi sẽ làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được y, chúng tôi sẽ không dao động. Và nếu được y, chúng tôi sẽ dùng y ấy, không tham lam, không say đắm, không phạm tội, thấy sự nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ. Chúng tôi sẽ tri túc với bất cứ loại đồ ăn khất thực nào… với bất cứ loại sàng tọa nào… với bất cứ loại thuốc men trị bệnh nào, và chúng tôi sẽ là người tán thán sự tri túc với bất cứ loại thuốc men trị bệnh nào. Và không vì thuốc men trị bệnh, chúng tôi sẽ làm điều bất chánh, bất xứng. Nếu không được thuốc men trị bệnh, chúng tôi sẽ không dao động. Và nếu được thuốc men trị bệnh, chúng tôi sẽ dùng thuốc men trị bệnh ấy, không tham lam, không say đắm, không phạm tội, thấy nguy hại, quán xuất ly với trí tuệ. Như vậy, này các Tỷ–kheo, các ông cần phải học tập”.
7) Với Kassapa, này các Tỷ–kheo, Ta sẽ giáo giới các Ông; hay với người như Kassapa. Và được giáo giới, các Ông cần phải thực hành như vậy.
–Hết trích dẫn–
Nguồn trích dẫn: Tương Ưng Bộ – Samyutta NikayaHòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
Tập II – Thiên Nhân Duyên – Chương V –Tương Ưng Kassapa (Ca–diếp) – I. Tri Túc (S.ii,194)
https://www.budsas.net/uni/u–kinh–tuongungbo/tu2–16.htm
––––––––––––
CHÁNH KINH: Hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới…Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
––––––––––––
Như vầy tôi nghe.
Một thời, Thế Tôn ở Savatthi (Xá–vệ), tại Jetavana (Kỳ–đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Ðộc). Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ–kheo: “Này các Tỷ–kheo”. – “Bạch Thế Tôn”, những Tỷ–kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn giảng như sau:
– Các Tỷ–kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và học tập các học giới.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được các đồng phạm hạnh thương mến, yêu quý, cung kính và tôn trọng!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta được các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu có Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nay hưởng thọ các vật dụng như y phục, các món ăn khất thực, sàng tọa và các dược phẩm trị bệnh! Mong rằng hành động của những vị tạo ra các vật dụng ấy được quả báo lớn, được lợi ích lớn!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng những bà con huyết thống với ta, khi họ chết và mệnh chung, nghĩ (đến ta) với tâm hoan hỷ (và nhờ vậy) được quả báo lớn, lợi ích lớn!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục lạc và bất lạc, chớ không phải bất lạc nhiếp phục ta. Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục bất lạc được khởi lên!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi, chớ không phải khiếp đảm và sợ hãi nhiếp phục ta! Mong rằng ta sống luôn luôn nhiếp phục khiếp đảm và sợ hãi được khởi lên!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng, tùy theo ý muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, không có phí sức, ta chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm, hiện tại lạc trú!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Có những giải thoát tịch tĩnh, siêu thoát Sắc giới, thuộc Vô sắc giới. Mong rằng ta có thể cảm xúc với thân và sống an trú trong cảnh giới ấy!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta trừ diệt ba kiết sử, chứng quả Dự lưu, không còn bị đọa lạc, chắc chắn hướng đến Chánh giác!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng trừ diệt ba kiết sử, làm cho muội lược tham, sân, si, ta chứng được Nhứt Lai, chỉ phải trở lại đời một lần nữa để đoạn tận khổ đau!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng, trừ diệt năm hạ phần kiết sử, ta được hóa sanh, chứng được Niết–bàn ngay tại cảnh giới ấy, không còn trở lui thế giới này nữa!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta chứng được các loại thần thông! Một thân ta hiện ra nhiều thân, nhiều thân ta hiện ra một thân; ta hiện hình, biến hình đi ngang qua vách, qua thành, qua núi như đi ngang hư không, ta độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; ta đi trên nước không chìm như trên đất liền; ta ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, ta chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; ta có thể, thân ta có thần thông bay cho đến Phạm Thiên!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)…các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng, với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, ta có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và loài Người, ở xa hay ở gần!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng với tâm của ta, ta biết được tâm của các chúng sanh và loài Người. Tâm có tham, ta biết tâm có tham. Tâm không tham, ta biết tâm không tham. Tâm có sân, ta biết tâm có sân. Tâm không sân, ta biết tâm không sân. Tâm có si, ta biết tâm có si. Tâm không si, ta biết tâm không si. Tâm chuyên chú, ta biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, ta biết tâm tán loạn. Tâm đại hành, ta biết tâm đại hành. Tâm không đại hành, ta biết tâm không đại hành. Tâm chưa vô thượng, ta biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, ta biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định, ta biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định, ta biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát, ta biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, ta biết tâm không giải thoát!” Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp, ta nhớ rằng: “Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này, Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, thọ mạng đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật… (như trên)… các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Mong rằng với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, ta thấy sự sống và sự chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng, chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của chúng. Các Tôn giả, chúng sanh nào làm những ác hạnh về thân, về lời và về ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn các Tôn giả, chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, về lời và về ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi Trời, trên đời này. Như vậy, ta với thiên nhãn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, nếu Tỷ–kheo có ước nguyện: “Với sự diệt trừ các lậu hoặc, sau khi tự tri tự chứng, ta chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc!”, Tỷ–kheo ấy phải thành tựu viên mãn giới luật, kiên trì, nội tâm tịch tĩnh, không gián đoạn Thiền định, thành tựu quán hạnh, thích sống tại các trú xứ không tịnh.
Này các Tỷ–kheo, hãy sống đầy đủ giới hạnh, đầy đủ giới bổn, sống phòng hộ với sự phòng hộ của giới bổn, đầy đủ uy nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong các lỗi nhỏ nhặt, chơn chánh lãnh thọ và tu học các học giới. Như vậy, phàm đã nói gì, chính duyên ở đây mà nói vậy.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy, các Tỷ–kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời dạy của Thế Tôn.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch Việt
–Hết trích dẫn–
Nguồn trích dẫn: Trung Bộ KinhMajjhima Nikaya – 6. Kinh Ước nguyện (Akankheyya sutta)
https://www.budsas.net/uni/u–kinh–trungbo/trung06.htm
–––––––––––––––
CHÁNH KINH: THẾ NÀO LÀ TỲ KHƯU GIỚI HẠNH ĐẦY ĐỦ?
–––––––––––––––
Khi đã xuất gia như vậy, vị ấy
⚀ sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha,
⚁ đầy đủ oai nghi chánh hạnh,
⚂ thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt,
⚃ thọ trì và học tập trong giới học,
⚄ thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh.
① Sinh hoạt trong sạch giới hạnh cụ túc,
② thủ hộ các căn,
③ chánh niệm tỉnh giác,
④ biết tri túc.
…
Thế nào là Tỷ–kheo giới hạnh cụ túc?
[TỪ BỎ SÁT SANH]
Ở đây, Tỷ–kheo từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quý, có lòng từ, sống thương xót đến tất cả hạnh phúc của chúng sanh và loài hữu tình.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ LẤY CỦA KHÔNG CHO]
Vị ấy từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đã cho, chỉ mong những vật đã cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ NÓI LÁO]
Tỷ–kheo từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không lường gạt, không phản lại lời hứa đối với đời.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ NÓI LỜI HAI LƯỠI]
Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều gì ở chỗ này, không đến chỗ kia nói để sanh chia rẽ ở những người này; nghe điều gì ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Như vậy Tỷ–kheo ấy sống hòa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ hòa hợp, hoan hỷ trong hòa hợp, thoải mái trong hòa hợp, hân hoan trong hòa hợp, nói những lời đưa đến hòa hợp.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ NÓI LỜI ĐỘC ÁC]
Vị ấy từ bỏ lời nói độc ác, tránh xa lời nói độc ác. Vị ấy nói những lời nói không lỗi lầm, đẹp tai, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhã, đẹp lòng nhiều người.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ NÓI LỜI PHÙ PHIẾM]
Vị ấy từ bỏ lời nói phù phiếm,
tránh xa lời nói phù phiếm,
nói đúng thời,
nói những lời chân thật,
nói những lời có ý nghĩa,
nói những lời về chánh pháp,
nói những lời về luật,
nói những lời đáng được gìn giữ,
những lời hợp thời, thuận lý, có mạch lạc hệ thống, có ích lợi.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ LÀM HẠI CÂY CỎ]
Vị ấy từ bỏ làm hại đến các hạt giống và các loại cây cỏ.
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống làm hại các hạt giống và cây cối như
hạt giống từ rễ sanh,
hạt giống từ nhánh cây sanh,
hạt giống từ đốt cây sanh,
hạt giống từ chiết cây sanh,
hạt giống từ hạt giống sanh.
Còn vị ấy thì không làm hại hạt giống hay cây cỏ nào.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ ĂN PHI THỜI, CẤT CHỨA VẬT THỰC]
Dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm. Từ bỏ ăn phi thời.
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống cất chứa và thọ hưởng các đồ vật như
cất chứa các món ăn,
cất chứa các đồ uống,
cất chứa vải,
cất chứa xe cộ,
cất chứa các đồ nằm,
cất chứa các hương liệu,
cất chứa các mỹ vị.
Còn vị ấy thì từ bỏ cất chứa các vật trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ XEM MÚA HÁT, DU HÍ]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống theo các du hí không chơn chánh như múa, hát, nhạc kịch, ngâm vịnh, nhịp tay, tụng chú, đánh trống, diễn các tuồng thần tiên, mãi võ, đấu voi, đấu ngựa, đấu trâu, đấu bò đực, đấu dê, đấu cừu, đấu gà, đấu chim cun cút, đấu gậy, đấu quyền, đấu vật, đánh giặc giả, dàn trận, thao dượt, diễn binh.
Còn vị ấy thì từ bỏ các du hí không chơn chánh như trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ CÁC TRÒ GIẢI TRÍ]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống đánh bài và theo các trò giải trí. Như cờ tám hình vuông, cờ mười hình vuông, cờ trên không, trò chơi trên đất, chỉ bước vào những ô có quyền bước, trò chơi quăng thẻ rồi chụp nhưng không cho sụp đống thẻ, chơi súc sắc, chơi khăng, lấy tay làm viết, chơi banh, chơi thổi kèn bằng lá, cày với chiếc cày giả, nhảy lộn nhào, chơi chong chóng, chơi với đồ chơi bằng lá, chơi xe con, chơi cung nhỏ, chơi đoán chữ viết thiết trên không hay trên lưng, chơi đoán tư tưởng, chơi bắt chước bộ điệu.
Còn vị ấy thì từ bỏ đánh bài cà các loại giải trí như trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ TRANG ĐIỂM]
Từ bỏ trang sức bằng vòng hoa, hương liệu, dầu thoa và các thời trang.
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, cũng vẫn sống dùng các đồ trang sức và mỹ phẩm như thoa dầu, đấm bóp, tắm, đập tay chân cho mềm dẻo, gương kem đánh mặt, vòng hoa và phấn son, phấn mặt và sáp mặt, vòng tay tóc giả trên đầu, gậy cầm tay, ống thuốc, gươm, lọng, dép thêu, khăn đầu, ngọc, phất trần, vải trắng có viền tua dài.
Còn vị ấy thì không dùng các loại trang sức và mỹ phẩm như trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ GIƯỜNG CAO, LỚN]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, cũng vẫn sống dùng các giường cao và giường lớn như ghế bành, ghế trường kỷ, nệm trải giường bằng len, vải trải giường nhiều tấm nhiều màu, chăn len trắng, chăn len thêu bông, nệm bông, nệm thêu hình các con thú, mền bằng lông thú cả hai phía mền bằng lông thú một phía, mền có đính ngọc, mền bằng lụa, tấm khảm lớn có thể chứa mười sáu người múa, mền voi, mền ngựa, mền xe, mền bằng da sơn dương khâu lại với nhau, mền bằng da con sơn dương khâu lại gọi là Kadali, tấm thảm với lều che phía trên, ghế dài có gối đầu, gối chân màu đỏ.
Còn vị ấy thì từ bỏ không dùng các giường cao và giường lớn như trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ TIỀN BẠC, CỦA CẢI]
Từ bỏ nhận vàng và bạc.
Từ bỏ nhận các hạt sống.
Từ bỏ nhận thịt sống.
Từ bỏ nhận đàn bà con gái.
Từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai.
Từ bỏ nhận cừu và dê.
Từ bỏ nhận gia cầm và heo.
Từ bỏ nhận voi, bò, ngựa và ngựa cái.
Từ bỏ nhận ruộng nương, đất đai.
[TỪ BỎ NÓI NHỮNG CHUYỆN VÔ ÍCH]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, cũng vẫn sống nói những câu chuyện vô ích tầm thường như
câu chuyện nói về vua chúa,
câu chuyện về ăn trộm,
câu chuyện về đại thần,
câu chuyện về binh lính,
câu chuyện về hãi hùng,
câu chuyện về chiến tranh,
câu chuyện về đồ ăn,
câu chuyện về đồ uống,
câu chuyện về vải mặc,
câu chuyện về giường nằm,
câu chuyện về vòng hoa,
câu chuyện về hương liệu,
câu chuyện về bà con,
câu chuyện về xe cộ,
câu chuyện về làng xóm,
câu chuyện về thị tứ,
câu chuyện về thành phố,
câu chuyện về quốc độ,
câu chuyện về đàn bà,
câu chuyện về đàn ông,
câu chuyện về vị anh hùng,
câu chuyện bên lề đường,
câu chuyện tại chỗ lấy nước,
câu chuyện về người đã chết,
các câu chuyện tạp thoại,
các câu chuyện biến trạng của thế giới,
câu chuyện về biến trạng của đại vương,
câu chuyện về sự hiện hữu và sự không hiện hữu.
Còn vị ấy thì từ bỏ nói những chuyện vô ích, tầm thường kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ TRANH LUẬN TRANH CHẤP]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống bàn luận tranh chấp như nói:
“Ngươi không biết pháp và luật này, tôi biết pháp và luật này.
Sao ngươi có thể biết pháp và luật này?
Ngươi đã phạm vào tà kiến, tôi nói mới thật đúng chánh kiến.
Lời tôi nói mới tương ưng, lời nói của người không tương ưng.
Những điều đáng nói trước, ngươi lại nói sau.
Những điều đáng nói sau ngươi lại nói trước.
Chủ kiến của ngươi đã bị bài bác, câu nói của ngươi đã bị thách đấu.
Ngươi đã bị thuyết bại.
Hãy đến mà giải vây lời nói ấy.
Nếu có thể được, gắng thoát ra khỏi lối bí”.
Còn vị ấy thì từ bỏ những cuộc biện luận, tranh chấp kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ TÀ MẠNG– KHÔNG KINH DOANH BUÔN BÁN]
Từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự mình làm môi giới.
Từ bỏ buôn bán.
Từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường.
[TỪ BỎ TÀ HẠNH – KHÔNG GIAN TRÁ, CƯỚP PHÁ]
Từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo.
Từ bỏ làm thương tổn, sát hại câu thúc, bứt đoạt, trộm cắp, cướp phá.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ TÀ MẠNG – KHÔNG ĐƯA TIN, MÔI GIỚI]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống cho đưa các tin tức, hoặc tự đứng làm môi giới như cho các vua, các đại thần của vua, cho các vị Sát–đế–lỵ, cho các vị Bà–la–môn, cho các gia chủ cho các thanh niên và nói rằng: “Hãy đi đến chỗ ấy, hãy đi lại chỗ kia, mang cái này lại, đem cái này đến chỗ kia”.
Còn vị ấy thì từ bỏ đưa các tin tức và đứng làm môi giới.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ TÀ MẠNG – KHÔNG SIỂM NỊNH, LỪA ĐẢO, CẦU LỢI]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn sống lừa đảo, nói lời siểm nịnh, gợi ý, dèm pha, cầu lợi.
Còn vị ấy thì từ bỏ nói lời lừa đảo và siểm nịnh như trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ TÀ MẠNG – KHÔNG XEM BÓI, XEM TƯỚNG, TẾ LỄ, BÙA CHÚ]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà hạnh như xem tướng tay chân, chiêm tướng, triệu tướng, mộng tướng, thân tướng, dấu chuột cắn, tế lửa, tế muỗng, dùng miệng phun hạt cải v. v… vào lửa, tế vỏ lúa, tế tấm, tế gạo, tế thục tô, tế máu, khoa xem chi tiết, khoa xem địa lý, khoa xem mộng, khoa cầu thần ban phước, khoa cầu quỷ ma, khoa dùng bùa chú khi ở trong nhà bằng đất, khoa rắn, khoa thuốc độc, khoa bò cạp, khoa chim, khoa chim quạ, khoa đoán số mạng, khoa ngừa tên bắn, khoa biết tiếng nói của chim.
Còn vị ấy thì tránh xa những tà hạnh kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng như xem tướng các hòn ngọc, tướng que gậy, tướng áo quần, tướng gươm kiếm, tướng mũi tên, tướng cây cung, tướng võ khí, tướng đàn bà, tướng đàn ông, tướng thiếu niên, tướng thiếu nữ, tướng đầy tớ nam, tướng đầy tớ nữ, tướng voi, tướng ngựa, tướng trâu, tướng bò đực, tướng bò cái, tướng dê, tướng cừu, tướng gia cầm, tướng chim cun cút, tướng con cắc kè, tướng vật tai dài, tướng ma, tướng thú vật.
Còn vị ấy thì tránh xa những tà mạng kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng, như đoán trước: “Vua sẽ tiến quân, vua sẽ lùi quân, vua bản xứ sẽ tấn công, vua ngoại bang sẽ triệt thối, vua bản xứ sẽ thắng trận, vua ngoại bang sẽ thắng trận, vua bản xứ sẽ bại trận. Như vậy sẽ có sự thắng trận cho phe bên này, sẽ có sự bại trận cho phe bên kia”.
Còn vị ấy thì từ bỏ những tà mạng kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Trong khi có một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn nuôi sống bằng những tà mạng, như đoán trước: “Sẽ có nguyệt thực, sẽ có nhật thực, sẽ có tinh thực, mặt trăng, mặt trời sẽ đi đúng chánh đạo, mặt trăng mặt trời sẽ đi ngoài chánh đạo, sẽ có sao băng, các tinh tú sẽ đi đúng chánh đạo, các tinh tú sẽ đi ngoài chánh đạo, sẽ có sao bằng, sẽ có lửa cháy các phương hướng, sẽ có động, sẽ có sấm trời, mặt trăng mặt trời các sao sẽ mọc, sẽ lặn, sẽ mờ, sẽ sáng, nguyệt thực sẽ có kết quả như thế này, nhật thực sẽ có kết quả như thế này, mặt trăng mặt trời đi đúng chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, mặt trăng mặt trời đi ngoài chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, các tinh tú đi đúng chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, các tinh tú đi ngoài chánh đạo sẽ có kết quả như thế này, sao băng sẽ có kết quả như thế này, lửa cháy các phương sẽ có kết quả như thế này, động đất sẽ có kết quả như thế này, sấm trời sẽ có kết quả như thế này, mặt trăng mặt trời các sao mọc lặn sáng mờ sẽ có kết quả như thế này”.
Còn vị ấy thì tránh xa không tự nuôi sống bằng tà mạng kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng tà mạng, như đoán trước: “Sẽ có nhiều mưa, sẽ có đại hạn, sẽ được mùa, sẽ mất mùa, sẽ được an ổn, sẽ bị hiểm họa, sẽ có bệnh, sẽ không có bệnh, hay làm các nghề như đếm trên ngón tay, kế toán, cộng số lớn, làm thư, làm theo thế tình”.
Còn vị ấy thì tránh xa các tà mạng kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng, như sắp đặt ngày lành để rước dâu hay rễ về nhà, sắp đặt ngày lành để đưa dâu hay rễ, lựa ngày giờ tốt để hòa giải, lựa ngày giờ tốt để chia rẽ, lựa ngày giờ tốt để đòi nợ, lựa ngày giờ tốt để cho mượn hay tiêu tiền, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, dùng bùa chú để phá thai, dùng bùa chú làm cóng lưỡi, dùng bùa chú khiến quai hàm không cử động, dùng bùa chú khiến người phải bỏ tay xuống, dùng bùa chú khiến tai bị điếc, hỏi gương soi, hỏi phù đồng thiếu nữ, hỏi thiên thần để biết họa phước, thờ mặt trời, thờ đại địa, phun ra lửa, cầu Siri thần tài.
Còn vị ấy thì tránh xa các tà mạng kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
[TỪ BỎ TÀ MẠNG – KHÔNG CHÚ THUẬT, PHONG THỦY, CHỮA BỆNH]
Trong khi một số Sa–môn, Bà–la–môn, dầu đã dùng các món ăn do tín thí cúng dường, vẫn còn tự nuôi sống bằng những tà mạng, như dùng các chú thuật để được yên ổn, để khỏi làm các điều đã hứa, để được che chở khi ở trong nhà bằng đất, để dương được thịnh, để làm người liệt dương, để tìm đất tốt làm nhà, để cầu phước cho nhà mới, lễ rửa miệng, lễ tắm, lễ hy sinh, làm cho mửa, làm cho xổ, bài tiết các nhơ bẩn về phía trên, bài tiết các nhơ bẩn về phía dưới, tẩy tịnh trong đầu, thoa dầu trong tai, nhỏ thuốc mắt, cho thuốc qua lỗ mũi, xức thuốc mắt, thoa dầu cho mắt, chữa bệnh cho mắt, làm thầy thuốc, mổ xẻ chữa bệnh cho con nít, cho thuốc uống bằng các loại rễ cây, ngăn ngừa công hiệu của thuốc.
Còn vị ấy thì tránh xa các tà mạng kể trên.
Như vậy là giới hạnh của vị ấy trong giới luật.
🍀
Và như vậy, vị Tỷ–kheo ấy, nhờ đầy đủ giới luật nên không thấy sợ hãi từ một chỗ nào về phương diện hộ trì giới luật.
Vị ấy nhờ đầy đủ giới luật cao quý này, nên hưởng lạc thọ, nội tâm không vẩn đục.
Như vậy, là Tỷ–kheo đầy đủ giới luật.
–Hết trích dẫn–
Nguồn trích dẫn: TK Viên Phúc Sumangala biên soạn theo nguồn:
Trường Bộ Kinh – Digha Nikaya
2. Kinh Sa–môn quả (Sàmannaphala sutta)
https://www.budsas.net/uni/u–kinh–truongbo/truong02.htm
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB