Minh sát tu tập: vun bồi phận sự trí (kicca ñāṇa) liên quan đến tập đế, tức phải đoạn trừ ba loại tham ái – như thế nào
MINH SÁT TU TẬP: VUN BỒI PHẬN SỰ TRÍ (KICCA ÑĀṆA) LIÊN QUAN ĐẾN TẬP ĐẾ, TỨC PHẢI ĐOẠN TRỪ BA LOẠI THAM ÁI – NHƯ THẾ NÀO?
https://www.facebook.com/share/p/7fWXtwoceS3sB8qL/
–––––––––––––––
… Những giải thích cô đọng ở trên về sự thực trí (saccā ñāṇa), phận sự trí (kicca ñāṇa), và dĩ tác trí (kata ñāṇa) đã được thực hiện hợp theo tinh thần Phụ Chú Giải Mulatika về Kathā Vatthu.
Như vậy chúng tôi đã đề cập tương đối đầy đủ về ba loại trí liên quan đến KHỔ ĐẾ.
Bây giờ chúng tôi sẽ tiếp tục bàn về ba trí này liên quan đến TẬP ĐẾ.
[Trong bài trước (Bài 54) đã trình bày về ❶ Sự thực trí (saccā ñāṇa) liên quan đến Tập Đế. Trong bài này sẽ nói tiếp về ❷ Phận sự trí (kicca ñāṇa) liên quan đến Tập Đế – VP]
❷ PHẬN SỰ TRÍ ĐỐI VỚI TẬP ĐẾ
‘Taṃ kho panidaṃ dukkhasamudayaṃ ariyasaccaṃ pahātabba ’ nti, bhikkhave, tathāgatānaṃ pubbe ananussutesu dhammesu cakkhuṃ udapādi, ñāṇaṃ udapādi, paññā udapādi, vijjā udapādi, āloko udapādi.’
“Ðây là Thánh đế về Khổ tập cần phải đoạn tận, này các Tỷ–kheo, đối với các pháp từ trước Ta chưa từng được nghe, ⒈ nhãn đã sanh khởi nơi ta, ⒉ trí đã sanh khởi nơi ta, ⒊ tuệ đã sanh khởi nơi ta, ⒋ minh đã sanh khởi nơi ta, ⒌ quang đã sanh khởi nơi ta.”
Nếu muốn giải thoát khổ, nguồn gốc của khổ hay tập khởi của khổ phải được loại trừ.
Cũng như để chữa hiệu quả một chứng bệnh, nguyên nhân căn để của tình trạng khó chịu ấy phải được loại trừ bằng việc áp dụng thuốc thích hợp.
Các bác sĩ Miến Điện chẩn đoán nguyên nhân của một căn bệnh dựa vào những rối loạn ở máu, gió, mật, đàm, khí hậu, thực phẩm…
Trong khi các bác sĩ Tây phương theo dấu nguyên nhân đến chứng bệnh khác mang những mầm bệnh.
Khi những nguyên nhân sanh bệnh đã được chẩn đoán đúng và rồi được loại trừ bằng sự điều trị thuốc men thích hợp, bệnh được chữa khỏi hoàn toàn.
Cũng vậy, cái khổ của tái sanh trong vòng luân hồi có thể tránh khỏi bằng cách loại trừ nhân căn để của nó, vốn là tham ái (taṇhā), tập đế. Do đó, (tập) đế này được xem như pháp cần phải được đoạn trừ (pahātabba dhamma).
Sự đoạn trừ này tác động như thế nào? Đó là điều chính yếu nhất cần phải biết.
“Không để cho tham ái (taṇhā) xuất hiện, không để cho tham ái sanh khởi; Ta sẽ giữ tâm (trong sáng) như nó là, không có tham ái. Ta sẽ chỉ có cái tâm không tham ái này thôi.”
Liệu có thể duy trì một trạng thái tâm như vậy được không?
Những người tin có thể làm được như vậy cứ thử cố gắng đạt đến trạng thái tâm ấy và thấy xem mình có thể duy trì được nó trong bao lâu.
Liệu người đã lập gia đình có không bị quấy rầy bởi những ý nghĩ yêu đương, sự âu yếm đối với vợ chồng và những xúc cảm tình dục đòi hỏi sự đáp ứng không?
Liệu có không khởi lên ý nghĩ thèm một điếu thuốc hay một têm trầu, hay thưởng thức một bữa ăn ngon?
Và còn về mong muốn có được hạnh phúc và tài sản thì sao?
Những câu hỏi này không thể giải quyết một cách dễ dàng bằng cách gạt chúng qua một bên, cho rằng chúng chỉ là những chuyện vặt, chỉ là những chuyện thường tình, tự nhiên không quan trọng.
Chúng ta phải chịu đựng sự sanh khởi của tham ái này chỉ vì chúng ta không thể đè nén được chúng.
Nhưng sự thực vẫn là và điều này cần phải ghi nhớ trong tâm một cách nghiêm túc, rằng tham ái là một pháp cần phải đoạn trừ (pahātabba dhamma) khi có thể.
Thực sự ra, có ba loại ái (taṇhā) cần đoạn trừ:
1. Ái thúc đẩy những hành động của thân và lời nói (thân hành và khẩu hành);
2. Ái kích thích tâm say đắm trong những khoái cảm tưởng tượng và những ý nghĩ kỳ quặc (ý hành);
3. Ái ngủ ngầm chờ cơ hội để tự thể hiện (tùy miên).
① Trong ba loại ái này, ái thúc đẩy những thân hành và khẩu hành được xếp loại như phiền não vi phạm (vitikkama kilesā) có thể được đoạn trừ bằng giới (sīḷa).
Một người giữ giới kỹ càng sẽ không trộm cắp bất cứ vật gì của người khác, cho dù anh ta cảm thấy muốn vật ấy; không phạm tội tà dâm (đối với người giữ phạm hạnh thì không hành dâm); không nói dối và tránh những thức uống có cồn và ma tuý.
Ở mức này, người ấy tránh được những phiền não vi phạm (vitikkama kilesā). Đây là cách ái được loại trừ bằng giới (sīḷa).
② Ái thể hiện trong những khoái cảm và lạc thú tưởng tượng được xếp loại như phiền não bột khởi (pariyuṭṭhāna kilesā), loại phiền não có thể được loại trừ bằng tâm định.
Nếu một người thường hành một trong những đề mục thiền, như niệm hơi thở chẳng hạn, họ có thể thoát khỏi những ý nghĩ ham muốn, và tưởng tượng về các dục trần, trong lúc ấy.
Như vậy, trừ phi chăm chú vào một trong những bài tập thiền, bằng không nếu cứ để cho tâm tự do theo đường lối tự nhiên của nó, nó sẽ cuốn hút vào những suy nghĩ về các dục trần khả ái, phần lớn là khát khao các dục lạc.
Nếu người nào tin rằng họ có thể giữ cho tâm của họ y như nó là không có những ái dục, người đó kể như không biết được tâm của mình vậy.
Thực tế mà nói, ngay cả trong lúc hành thiền không ngừng nghỉ, trước khi năng lực định có đủ sức mạnh, ái bột khởi hay những suy nghĩ về dục lạc vẫn cứ liên tục xuất hiện.
Chỉ khi đắc thiền, do hành thiền định, những ý nghĩ về dục lạc loại thô này mới dừng lại, nhưng ngay cả như thế, nó cũng chỉ kéo dài trong thời gian nhập thiền mà thôi. Đây là cách định loại trừ dục ái bằng vikkhambhana pahāna (trấn phục xả đoạn, đoạn từ bằng đè nén).
Hữu ái (bhava taṇhā), tham muốn hiện hữu và phi hữu ái (vibhava taṇhā) mong muốn không hiện hữu, vẫn tồn tại ngay cả trong những người có những thiền chứng.
Chúng cũng tồn tại trong các vị Phạm Thiên. Do đó hữu ái và phi hữu ái không thể đoạn trừ được bằng thiền định.
Không cần nói ai cũng biết rằng những người bình thường không có kinh nghiệm trong thiền không thoát khỏi tham ái đối với cuộc sống và sự hiện hiện hữu của họ.
Tuy nhiên, những kẻ vô văn phàm phu như vậy không biết rằng sự thích thú trong cuộc sống và sự hiện hữu của họ là tham ái (taṇhā) hay phiền não (kilesā).
Thậm chí họ còn đưa ra quan niệm cực kỳ sai lầm cho rằng ‘người ta có thể giữ được tâm trong sạch không có những phiền não (kilesā). Và tâm không phiền não tức là Niết Bàn’. Điều này rõ ràng đi ngược lại lời dạy của Đức Phật.
Tham ái có thể thực sự chưa sanh khởi, nhưng sẽ xuất hiện khi những điều kiện chính đáng có mặt, trong trường hợp này nó được gọi là phiền não tuỳ miên hay phiền não ngủ ngầm (anusaya kilesā).
Phiền não này có hai loại:
1. Ārammana nusaya, phiền não tiềm tàng ngấm ngầm trong đối tượng;
2. Santāna nusaya, phiền não ngủ ngầm trong tự thân (tức trong tương tục của ngũ uẩn.)
Có thể có những đối tượng tự thể hiện vào lúc thấy hay nghe nhưng lúc đó nó không được ghi nhận như vô thường, khổ, vô ngã. Tuy nhiên, vào lúc hồi tưởng lại, phiền não (kilesā) có thể khởi lên liên quan đến chúng. Những phiền não như vậy được gọi là phiền não tiềm tàng ngủ ngầm trong đối tượng.
Ārammana nusaya kilesā, phiền não ngủ ngầm trong đối tượng này có thể được dập tắt bằng minh sát trí (vipassanā ñāṇa), tất nhiên thiền minh sát chỉ có thể loại trừ những phiền não nào sanh khởi trong những đối tượng được quán mà thôi.
Những đối tượng thoát khỏi sự quán, hay những phiền não tiềm tàng vẫn không bị tác động.
Những phiền não (kilesā) chưa bị Thánh Đạo đoạn trừ và đang chờ cơ hội để sanh khởi trong tương tục ngũ uẩn của một người được gọi là Santāna nusaya, phiền não ngủ ngầm trong tự thân.
Phiền não loại này chỉ có thể loại trừ bằng Thánh Đạo Trí (Ariya Magga Ñāṇa). Chính sự diệt trừ dễ dàng của Santāna nusaya bằng thánh đạo này mà thiền minh sát phải được tu tập.
PHIỀN NÃO NGỦ NGẦM THỰC SỰ HIỆN HỮU
Mặc dù Kinh và Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) nói rõ rằng có sự hiện hữu của phiền não ngủ ngầm (anusaya kilesā). Một số người vẫn quả quyết cho rằng không có thứ gì gọi là phiền não ngủ ngầm cả, chỉ do khả năng lưu giữ của tâm mà phiền não phát khởi vậy thôi. Điều này rõ ràng đã biểu lộ sự bất kính hoàn toàn đối với những lời dạy của Đức Phật.
Cứ suy xét một lúc xem. Ở những đứa bé trước tuổi dậy thì, sự khát khao dục lạc dưới hình thức ham thích người khác phái, vẫn chưa tự thể hiện. Điều này không phải vì chúng không có phiền não (kilesā), mà chỉ vì vào lúc ấy cơ hội cho phiền não (kilesā) này sanh khởi vẫn chưa có.
Nó vẫn ngủ ngầm trong chúng và chỉ xuất hiện khi những điều kiện thích hợp có mặt. Mọi người đều biết rằng, khi đến tuổi dậy thì, chỉ cần thấy hay nghe tiếng nói của người khác phái lập tức những dục vọng liền khởi lên trong chúng. Nó chỉ xảy ra một cách tự nhiên chứ không phải do chúng đã được thấy hay được nghe về chuyện này trước đó và ghi nhớ nó trong tâm.
Thực sự điều này xảy ra là vì có những phiền não (kilesā) ngủ ngầm trong những đứa bé ấy và bây giờ chúng tìm được cơ hội để sanh khởi mà thôi.
Lại nữa, lấy trường hợp của một số người có đức tin nơi Tam Bảo, đó là có lòng tin đối với Đức Phật, Giáo Pháp, và Chư Tăng. Nhưng khi bị các vị đạo sư của các tôn giáo khác tác động, họ bắt đầu ấp ủ hoài nghi, vicikicchā, về Phật, Pháp, Tăng. Một số thậm chí còn thay đổi tín ngưỡng của mình để đi theo tà kiến.
Hoài nghi và tà kiến khởi lên trong họ không phải do khả năng ghi nhớ trong tâm; mà ngày nào chưa bị loại trừ bằng Thánh Đạo (Ariya Magga) chúng luôn luôn có mặt trong họ vậy.
Các bậc thánh thời Đức Phật đã diệt trừ được tà kiến và hoài nghi bằng nhập lưu thánh đạo (sotāpanna magga) do vậy không vị đạo sư nào, ngay cả vua trời Đế Thích và MaVương (Māra) có thể tác động làm cho họ chấp nhận tà kiến, nuôi dưỡng hoài nghi về tam bảo. Điều này là do những phiền não ngủ ngầm trong họ đã bị thánh đạo loại trừ.
Những bậc thiện nhân có cơ hội nghe hay đọc bài Kinh Chuyển Pháp Luân này nên ghi nhớ dứt khoát trong tâm rằng có những phiền não đang nằm ngầm trong tâm mình chỉ chờ cơ hội để khởi lên và rằng tham ái này, vốn là nhân đích thực của khổ, phải được đoạn trừ bằn thánh đạo qua việc tu tập thiền minh sát (vipassanā bhāvanā).
Tóm lại, biết rằng đây là pháp (dhamma) cần phải đoạn trừ là phận sự trí (kicca ñāṇa) đối với sự thực về nguồn gốc của khổ (tập đế).
Phận sự trí biết những gì cần phải làm đối với tập đế này phải được tu tập trước khi thánh đạo xuất hiện.
Như vậy, phận sự trí là tri kiến đi trước (nó) biết ⑴ những gì cần phải được biết, ⑵ những gì cần phải được đoạn trừ, ⑶ những gì cần phải được chứng ngộ, và ⑷ những gì cần phải được tu tập.
Đối với Đức Thế Tôn, phận sự trí này xuất hiện, không phải do nghe từ người khác. Do đó Ngài thừa nhận: “Đây là Thánh Đế về nguồn gốc của khổ phải được đoạn trừ. Như vậy, này các Tỳ–kheo, đối với các pháp từ trước chưa từng được nghe, ⒈ nhãn đã sanh khởi nơi ta, ⒉ trí đã sanh khởi nơi ta, ⒊ tuệ đã sanh khởi nơi ta; ⒋ minh đã sanh khởi nơi ta, và ⒌ quang đã sanh khởi nơi ta.”
Rồi Đức Thế Tôn tiếp tục giải thích cách ngài đã hoàn thành phận sự đoạn trừ (tập đế).
(Còn tiếp)
– Hết trích dẫn –
Nguồn trích dẫn: Sumangala Bhikkhu Viên Phúc trích dẫn từ “Giảng Giải Kinh Chuyển Pháp Luân” – Đại trưởng lão Thiền sư Mahasi Sayadaw.
–––––––––––––––
🍀 Nên đọc thật kỹ và nhớ thuộc những lời hướng dẫn thực hành Minh sát Tứ niệm xứ trong bài giảng của Ngài Mahasi Sayadaw vì hiếm có vị nào trao truyền những kinh nghiệm thực chứng pháp hành một cách sâu sắc, toàn diện nhưng vô cùng dễ hiểu để có thể áp dụng trực tiếp ngay vào đời sống hàng ngày, chứ không phải chỉ có lý luận xuông, với một trí tuệ uyên bác như Ngài.
Điều quan trọng nhất ở đây là cần nỗ lực ghi nhớ, thuộc lòng những lời hướng dẫn thực hành trong các bài giảng này.
Rất hiếm người có thể gắn liền pháp thực hành Minh sát Tứ niệm xứ vào trong các bài giảng Kinh như Ngài!
Sādhu! Lành thay!
Sumangala Bhikkhu Viên Phúc
–––––––––––––––
‘… Hiện nay có rất nhiều Nissaya hay các hình thức dịch, giảng giải, và giải thích khác nhau về Kinh Điển Pāḷi ở Miến Điện. Nhưng chắc chắn là không có bất kỳ tác phẩm nào chỉ rõ những phương pháp thực hành cụ thể từ Kinh Điển và làm thế nào để những người hành thiền nhiệt tâm và chân thành mong muốn chứng đắc Đạo Quả có thể ứng dụng được những phương pháp ấy.
Kinh này đã được chúng tôi giảng giải chi tiết trong nhiều dịp, nhấn mạnh đến sự áp dụng thực tiễn của nó vào thiền tập (Minh sát Tứ niệm xứ).”
– Mahasi Sayadaw.
–––––––––––––––
FB LINKS CÁC LOẠT BÀI VỀ: KINH CHUYỂN PHÁP LUÂN GIẢNG GIẢI – MAHASI SAYADAW
Bài viết liên quan
- Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
- Tôi nguyện, Web, FB
- Tại sao Myanmar, Web, FB
- Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
- Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
- Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
- Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
- Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
- Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB
🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive
- Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
- Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
- Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
- Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
- Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
- Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
- 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
- Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB