Pavāraṇā – lễ tự tứ 2022. Hoan hỷ cùng tất cả chư vị tỳ khưu

PAVĀRAṆĀ – LỄ TỰ TỨ 2022: HOAN HỶ CÙNG TẤT CẢ CHƯ VỊ TỲ KHƯU TRUYỀN THỐNG PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY THERAVADA ĐÃ THÀNH TỰU VIÊN MÃN KỲ ĐẦU CỦA AN CƯ MÙA MƯA 2022

––––––––––––––––––––––––––––––

Hôm nay 9/10/2022 là ngày 15, ngày cuối kỳ trăng tròn (ngày rằm) tháng Thadingyut, theo Lịch Phật giáo Myanmar, là ngày lễ Bố tát Uposatha tụng đọc Giới Bổn Patimokkha (mỗi tháng hai lần vào ngày 14 hoặc 15 cuối kỳ trăng khuyết và cuối kỳ trăng tròn) – Nhưng đây là ngày Bố tát Uposatha đặc biệt duy nhất trong năm khi chư Tỳ khưu không tụng đọc Giới Bổn Patimokkha (trong lễ tăng sự Samgha Uposatha), mà thay vào đó là Pavāraṇā – Lễ Tự Tứ (Lễ Mời Phê Bình).

Trong Lễ Tự Tứ này các vị Tỳ khưu sau khi trải qua ba tháng An cư mùa mưa, trọn vẹn, không bị đứt đoạn, mời các vị Tỳ khưu còn lại phê bình, khiển trách mình nếu có bất kỳ lỗi lầm nào ① được thấy, ② được nghe, hoặc ③ nghi ngờ, chúng đều có thể được nêu ra, hoàn toàn vì mục đích ❶ sống hòa hợp cùng nhau, ❷ tẩy sạch các vết nhơ, tội lỗi, và ❸ tôn vinh giới luật.

Đây cũng chính là ngày kết thúc kỳ an cư mùa mưa 3 tháng hàng năm, và chư Tỳ khưu sẽ có thêm một tuổi hạ (tuổi Đạo: tính từ khi thọ giới Tỳ khưu: mỗi kỳ an cư mùa mưa tính một tuổi hạ).

Đây cũng chính là ngày chuẩn bị cho một tháng Kathina duy nhất (bắt đầu từ ngày mai, ngày đầu tiên kỳ trăng khuyết, cho đến ngày cuối kỳ trăng tròn của tháng tiếp sau) trong một năm, để các thí chủ có thể tổ chức Đại lễ cúng dường Y Kathina tới Tăng đoàn Sangha tại những nơi có vị tỳ khưu an trú không đứt đoạn 3 tháng an cư mùa mưa đợt đầu.

Đây cũng chính là ngày Lễ Thadingyut, còn được gọi là Lễ hội Anh sáng, đánh dấu sự kết thúc của Kỳ an cư mùa mưa, và là Lễ hội kỷ niệm ngày Đức Phật trở về trần thế từ cung trời Đao Lợi – Tāvatiṃsa (Tam thập tam thiên) nơi Ngài đã dành ba tháng an cư mùa mưa để giảng dạy Abhidhamma – Vi Diệu Pháp, thiêng liêng cao thượng cho mẹ ngài và chư thiên khác. Đây là Lễ hội lớn thứ hai sau Lễ hội Thingyan đón mừng năm mới cổ truyền Myanmar.

Chúng ta cùng vui mừng tùy hỷ với mọi công đức phước báu bởi công phu thực hành tu tập Giới Định Tuệ của chư Tỳ khưu, cũng như công đức phước báu bởi các thiện pháp bố thí hộ trì, trì giới, cung kính phục vụ Tam bảo của tất cả các thiện nam tín nữ trong suốt thời gian qua.

Nguyện cho oai đức Tam Bảo hộ trì cho tất cả chúng ta luôn có được trí tuệ, tinh tấn, kham nhẫn, từ, bi, hỷ, xả trên con đường dẫn đến giác ngộ giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau, phiền não, đoạn tận tham sân si không còn dư sót, chấm dứt sinh tử luân hồi trong tam giới, đạt được hạnh phúc thật, sự tự do thật sự – Niết bàn.

Trong tâm từ,

Sumangala Bhikkhu Viên Phúc

––––––––––––––––––––––––––––––

Pavāraṇā – Lễ Tự Tứ (Lễ Mời Phê Bình)

Sumangala Bhikkhu Viên Phúc

––––––––––––––––––––––––––––––

Ngày 15 (hoặc 14 tuỳ theo chu kỳ) kỳ trăng tròn sau 3 tháng an cư (ngày rằm tháng 9 âm lịch), là ngày kết thúc Vassa – kỳ An cư mùa mưa, thay vì Lễ Uposatha tụng đọc Patimoka (Giới luật) như thường lệ là buổi lễ Pavāraṇā. Đây là buổi Lễ mỗi năm một lần.

Theo Ngài Sayadaw U Pandita trong cuốn ” On the Path to Freedom” thì “Pavāraṇā” có nghĩa là “Lời mời”, và đã trở thành tên gọi cho buổi họp mặt cuối kỳ An cư mùa mưa, khi các thành viên của Sangha (Tăng đoàn) – những người đã liên tục ở cùng nhau suốt ba tháng, có thể tự thấm thía những lời khiển trách giữa họ với nhau. Sự xưng tội lẫn nhau đã được kêu mời nhân dịp chia tay theo truyền thống của Sangha.

Trong buổi lễ Pavarana (lễ Tự Tứ) này, các vị Tỳ khưu sau khi trải qua ba tháng An cư mùa mưa, trọn vẹn, không bị đứt đoạn, mời các vị Tỳ khưu còn lại khiển trách mình. Hoàn toàn vì mục đích tẩy sạch các vết nhơ, vị Tỳ khưu tự hạ mình để tiếp nhận lời khiển trách và tạo cơ hội để các vị Tỳ khưu khác chỉ ra các lỗi lầm của mình. Đức Thế Tôn đã cho phép các vị Tỳ khưu mời các vị khác hoặc tự hạ mình nhận sự phê phán, vì vậy, nếu có bất kỳ lỗi lầm nào được thấy, được nghe, hoặc nghi ngờ, chúng đều có thể được nêu ra.

Trong Phật giáo, điều này cần được giảng dạy và hướng dẫn. Nếu các thành viên giữ im lặng, họ sẽ không thể trao đổi giữa họ với nhau, thay vào đó, họ bị cách ly. Cũng ví như các động vật, họ sẽ không thể học và thảo luận về Pháp, và không thể nói cái gì là tốt hoặc xấu.

Đức Thế Tôn đã tự bắt đầu truyền thống này. Thửa đó Đức Thế Tôn đang ở khu nhà người mẹ của Migara, tại công viên East, gần Savatthi, và cùng với Ngài là hội chúng gồm năm trăm vị Tỳ khưu, tất cả đều là các vị Arahat. Khi đó, trong dịp lễ Pavarana, từ chỗ ngồi trên khoản trống, quan sát thính chúng đạo hữu thinh lặng, Ngài đã ngỏ lời với họ:

– Này các Tỳ khưu, ta mời các ông, các ông có điều gì ở đây chê trách ta trong lời nói và việc làm không?

Như vậy, rất rõ ràng là Đức Phật đã đánh giá cao sự xưng tội lẫn nhau giữa các thành viên Tăng đoàn.

Lời mời (Pavareti) lẫn nhau này có còn hiệu lực sau buổi lễ không? Vẫn có hiệu lực.

Tại sao chúng ta lại cần đến Lời mời như vậy?

Không ai là hoàn hảo trên thế giới này. Do vậy, cần mời người khác chỉ lỗi cho mình, và trong tinh thần xây dựng.

Nếu đồng sự giữ im lặng không chỉ ra các vết nhơ, họ được coi là nhẫn tâm đối với vị Tỳ khưu liên quan. Họ cần phải hiểu rằng, nếu họ không thảo luận các lỗi lầm của các vị Tỳ khưu, các vị này sẽ có kết cục thảm hại.

Do vậy, với lòng nhân hậu đối với vị Tỳ khưu, họ cần phải thực hiện việc phê bình. Đồng thời, họ cũng cần phải ghi nhớ rằng sự phê phán thiếu xây dựng sẽ chỉ gây nên sự lăng mạ mà thôi.

Khi đã sống cùng nhau trong cùng một Tu viện suốt cả ba hoặc bốn tháng, các vị Tỳ khưu có thể thấy, nghe, hoặc nghi ngờ các vết nhơ nơi các vị khác. Do vậy, họ có trách nhiệm lấp đầy khoảng trống, sửa chũa các khiếm quyết, loại bỏ sự bất đồng giữa mọi người. Điều này chỉ thích hợp khi mỗi xúc cảm phát sinh trong khi sống cùng nhau phải được bộc lộ trong tinh thần hòa hợp, anh em.

Do vậy, với tâm từ tới các vị Tỳ khưu đồng sự, các vị Tỳ khưu cần phải đáp ứng lời yêu cầu phê bình trong tinh thần xây dựng. Bằng cách này, vị Tỳ khưu liên quan sẽ có được lợi ích bởi việc phát hiện các lỗi lầm và sửa chũa chúng kịp thời.

Để thành tựu Pavarana – tự dâng hiến bản thân tới Tăng đoàn và mở đường cho các lời khiển trách, vị Tỳ khưu cần tuyên bố:

” Kính thưa các Ngài trong Tăng đoàn, xin mời, hoặc thấy, hoặc nghe, hoặc nghi ngờ. Các Ngài hãy khiển trách tôi với tâm từ. Tôi gắng xin sửa chữa.

Lần thứ nhì,….

Lần thứ ba… “

Như vậy vị Tỳ khưu sẽ được sám hối và trở thành trong sạch.

Có thể cách tu dưỡng này cũng nên được làm cho thích hợp hơn trong các lĩnh vực khác của cuộc sống để mang lại lợi ích.

Một thiền sinh đã thử áp dụng phương pháp này trong trường học, và đã không thành công vì các học sinh đã không sống cùng nhau cả ngày lẫn đêm, đủ lâu để thấy lối lầm của người khác.

Mỗi khi giáo viên chỉ ra lỗi lầm của học sinh, các học sinh cũng cần phải chỉ ra lỗi lầm của giáo viên.

Không có nhiều giáo viên có thể chịu đụng được lời phê bình. Sự sẵn sàng đáp ứng các đánh giá của người ngoài để thanh tịnh hóa theo cách thức như vậy là phẩm chất của bậc Thiện tri thức – Kalyanamitta.

(TK Viên Phúc lược dịch từ ” On the Path to Freedom” của Ngài Sayasaw U Pandita)

––––––––––––––––––––––––––––––

HÀNH PAVĀRAṆĀKAMMA

– TK Hộ Pháp – Gương bậc xuất gia (https://budsas.net/uni/u–gxg/gxg43.htm)

––––––––––––––––––––––––––––––

Mỗi năm vào ngày 15 (hoặc 14 tùy theo chu kỳ) là ngày cuối cùng trong 3 tháng an cư nhập hạ của Tỳ khưu, (sáng ngày hôm sau là ngày mãn hạ), Ðức Phật cho phép chư Tỳ khưu thỉnh mời (pavāraṇā) để nhắc nhở, khuyên bảo lẫn nhau với tâm từ do bởi thấy, nghe, nghi ngờ. Khi Tỳ khưu nhận thức được sai lầm rồi, sẽ sửa chữa cho trở nên hoàn thiện.

Trong Phật giáo, đối với Tỳ khưu biết rõ đã phạm āpatti nào, lỗi lầm nào, Ðức Phật cho phép Tỳ khưu làm lễ sám hối āpatti ấy, lỗi lầm ấy với một vị Tỳ khưu khác hay chư Tăng, nguyện cố gắng thu thúc giữ gìn cho được trong sạch trở lại.

Ðối với Tỳ khưu không thấy, không biết āpatti, Ðức Phật cho phép Tỳ khưu hành lễ pavāraṇā thỉnh mời chư Tăng, hay cá nhân nhắc nhở chỉ dạy những āpatti, những lỗi lầm lẫn nhau.

Khi Tỳ khưu nhận thức rõ āpatti, lỗi lầm, sẽ sửa chữa lại cho được hoàn thiện.

Hành Tăng sự pavāraṇā cũng là một trong những cách hành Tăng sự chỉ dành riêng cho Tỳ khưu mà thôi. Những Tỳ khưu được phép tham dự hội họp tại sīmā, để hành Tăng sự pavāraṇākamma, phải hội đủ những điều kiện còn khó hơn cả hành Tăng sự uposathakamma.

– Tỳ khưu có giới hoàn toàn trong sạch.

– Tỳ khưu phải an cư 3 tháng hạ trước, kể từ bình minh ngày 16/6 đến bình minh ngày 16/9 âm lịch.

– Tỳ khưu suốt 3 tháng an cư nhập hạ không bị đứt hạ…

Những Tỳ khưu này có quyền tham dự hội họp tại sīmā, để làm lễ hành Tăng sự pavāraṇā giữa chư Tỳ khưu Tăng.

Nếu chỗ Tỳ khưu an cư không có sīmā, thì chư Tỳ khưu có thể đến chùa khác có sīmā để làm lễ hành Tăng sự pavāraṇā.

Nếu Tỳ khưu phạm āpatti; Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ sau, kể từ ngày 16/7 đến ngày 16/10 âm lịch; Tỳ khưu an cư 3 tháng hạ trước nhưng bị đứt hạ; Tỳ khưu không nhập hạ; những hạng Tỳ khưu này không được phép tham dự lễ hành Tăng sự pavāraṇā.

Pavāraṇā – Lời thỉnh mời, có 3 loại:

1– Saṃghapavāraṇā: Lời thỉnh mời giữa chư Tỳ khưu Tăng.

2– Gaṇapavāraṇā: Lời thỉnh mời giữa nhóm Tỳ khưu.

3– Puggalapavāraṇā: Một Tỳ khưu nguyện pavāraṇā.

Hành pavāraṇā, có 3 cách:

1– Tevācikā pavāraṇā: Pavāraṇā đọc 3 lần.

2– Dvivācikā pavāraṇā: Pavāraṇā đọc 2 lần.

3– Ekavācikā pavāraṇā: Pavāraṇā đọc 1 lần

LỢI ÍCH LỜI PAVĀRAṆĀ

Người ta thường thấy lỗi người khác thì dễ, thấy lỗi của mình thì khó.

Riêng bậc Thiện trí thường có trí nhớ, trí tuệ biết mình, mới tự thấy được lỗi của mình mà sửa chữa, để trở nên thánh thiện, không quan tâm đến lỗi người khác; nhưng một khi có người nào thỉnh mời, nhờ nhắc nhở, chỉ dạy những āpatti, những lỗi lầm, khi ấy, bậc Thiện trí có tấm lòng từ, bi, mong muốn sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc lâu dài của người ấy, Ngài mới quan tâm giúp đở chỉ ra những āpatti, những lỗi lầm và dạy cách sửa chữa bỏ điều sai làm điều đúng, bỏ điều ác làm điều thiện, để cho người ấy trở nên người thiện…

Trong đoàn thể chư Tỳ khưu Tăng, muốn cho được hoàn thiện, để đem lại đức tin đối với những người chưa có đức tin và làm tăng trưởng đức tin đối với những người đã có đức tin, nên Ðức Phật chế định cách hành Tăng sự pavāraṇā của chư Tỳ khưu, từ vị Ðại Trưởng Lão cho đến vị tân Tỳ khưu, mỗi vị đều thành tâm nghiêm chỉnh, tha thiết nói lên lời thỉnh mời chỉ rõ lỗi của mình, trong trường hợp do thấy, do nghe, hoặc do nghi ngờ. Khi nhận thấy đúng, vị ấy phải xin thành tâm sám hối và sửa chữa để trở nên thánh thiện, tốt đẹp.

Tốt đẹp không chỉ riêng cho mình, mà còn chung cho đoàn thể chư Tỳ khưu Tăng. Ðó là sự lợi ích của việc hành Tăng sự pavāraṇā (lời thỉnh mời).

Nguồn: GƯƠNG BẬC XUẤT GIA

––––––––––––––––––––––––––––––

PHẨM VỊ TRONG PHẬT GIÁO

– TK Hộ Pháp – Gương bậc xuất gia

––––––––––––––––––––––––––––––

Tỳ khưu trong Phật giáo, khi đã trải qua một mùa hạ (vassa), thì được tính một tuổi hạ. Nếu trải qua bao nhiêu mùa hạ, thì được tính bấy nhiêu tuổi hạ. Cho nên, có sự phân chia phẩm vị theo tuổi hạ thấp – cao, để có sự kính trọng, lễ bái, đảnh lễ cúng dường.

Nếu Tỳ khưu có tuổi hạ bằng nhau, thì tính theo tháng, ngày, giờ làm lễ thọ Tỳ khưu trước – sau. Vị Tỳ khưu nào làm lễ thọ Tỳ khưu trước, so về thời gian, thì vị ấy được xem là vị Tỳ khưu lớn, còn vị kia được xem là vị Tỳ khưu nhỏ.

Trường hợp 2 hoặc 3 vị Sa di làm lễ thọ Tỳ khưu cùng một lúc, thì tính theo tuổi đời lớn – nhỏ, sắp đặt theo thứ tự: vị lớn tuổi trước, vị nhỏ tuổi sau; khi tụng đọc trong Ñatticatutthakammavācā; tên vị nào tụng đọc trước, vị Tỳ khưu ấy được xem là vị Tỳ khưu lớn; còn tên vị nào tụng đọc sau, vị Tỳ khưu ấy được xem là vị Tỳ khưu nhỏ.

Theo luật của Ðức Phật ban hành, đối với vị Tỳ khưu nhỏ, phải nên kính trọng, lễ bái, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính vị Tỳ khưu lớn, khi xưng hô, thì gọi vị Tỳ khưu lớn, bằng tiếng “Bhante: Bạch Ðại Trưởng Lão, Bạch Ðại Ðức, hoặc Bạch Pháp Huynh”. Và vị Tỳ khưu lớn, gọi vị Tỳ khưu nhỏ hạ, thọ Tỳ khưu sau bằng tiếng “Āvuso: này con, hoặc: Này Pháp đệ”.

Tỳ khưu có 3 bậc [Vinayapiṭaka, Pārājikakaṇḍa]:

––––––––––––––––––––––––––––––

❶ – Nava: Tân Tỳ khưu, bậc Tỳ khưu kể từ khi trở thành Tỳ khưu cho đến dưới 5 tuổi hạ, là bậc Tỳ khưu còn phải nương nhờ ở thầy để học luật, hành theo luật, học pháp học và pháp hành, cho hiểu rõ luật và pháp, để có thể tự nương nhờ nơi sở học, hành của mình.

❷ – Majjhima: Trung Ðức, bậc Tỳ khưu kể từ 5 tuổi hạ cho đến dưới 10 tuổi hạ.

❸ – Thera: Ðại Ðức, bậc Tỳ khưu kể từ 10 tuổi hạ trở lên.

Thera, có 2 bậc [Bộ Maṇimañcū]:

––––––––––––––––––––––––––––––

❶ – Anuthera: Ðại Ðức, bậc Tỳ khưu kể từ 10 tuổi hạ cho đến 19 tuổi hạ.

❷ – Mahāthera: Ðại Trưởng Lão, bậc Tỳ khưu kể từ 20 tuổi hạ trở lên.

Thera, có 3 loại [Majjhimanikāya, Pāthikavagga, kinh Saṅgītisutta]:

––––––––––––––––––––––––––––––

❶ – Jātithera: Bô lão trong đời do sống lâu hay dòng dõi cao quý.

❷ – Dhammathera: Ðại Ðức do hợp đủ chi pháp.

Ðức Phật dạy, có 4 chi pháp để trở thành Ðại Ðức:

– Bậc có giới hạnh trong sạch đầy đủ.

– Bậc đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng.

– Bậc chứng đắc tứ thiền.

– Bậc Thánh A–ra–hán đã diệt đoạn tuyệt mọi phiền não.

Bậc có đầy đủ 4 chi pháp trên, hoặc chỉ có một chi pháp nào trong đó, thì cũng được gọi là Dhammathera.

❸ – Sammutithera: Ðại Ðức do chế định gọi tên “Ðại Ðức, Ðại Ðức”. Như khi gặp Tỳ khưu hoặc Sa di, người ta gọi “Ðại Ðức”, do lòng kính trọng.

Ý Nghĩa Thera

––––––––––––––––––––––––––––––

Trong bộ Chú giải Apadāna định nghĩa:

–Thiravarasīla–samādhi–paññā–vimutti–vimuttiñāṇa–dassanaguṇehi yuttā’ti thero.

Thera: Ðại Ðức là bậc thường trú trong 5 đức tính cao quý: Giới – Ðịnh – Tuệ – Giải thoát (Thánh Quả) – Giải thoát tri kiến (tuệ quán xét).

KINH THERASUTTA

––––––––––––––––––––––––––––––

Trong Chi bộ kinh, Ðức Phật thuyết giảng bài kinh Therasutta như sau [Aṅguttaranikāya, Dasakanipāta]:

– Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu là bậc Thera hợp với 10 pháp, ở nơi nào cũng được an lạc.

10 pháp ấy là:

1– Tỳ khưu là bậc Thera sống lâu, có tuổi hạ cao.

2– Tỳ khưu là bậc có giới, thực hành nghiêm chỉnh tất cả điều học.

3– Tỳ khưu là bậc đa văn túc trí, học nhiều hiểu rộng, thông thuộc rành rẽ Tam tạng, thông suốt chánh kiến, hiểu rõ chánh pháp, truyền bá phạm hạnh cao thượng hoàn hảo đoạn đầu, hoàn hảo đoạn giữa, hoàn hảo đoạn chót, bằng lời lẽ văn chương hoàn toàn trong sáng, đầy đủ ý nghĩa.

4– Tỳ khưu là bậc thông thuộc Bhikkhupātimokkha và Bhikkhunīpātimokkha, hiểu biết rõ điều học và nhận thức đúng đắn theo luật.

5– Tỳ khưu là bậc có trí tuệ sáng suốt có thể làm vắng lặng được sự biến (adhikaraṇa) xảy ra giữa chư Tỳ khưu.

6– Tỳ khưu là bậc kính trọng chánh pháp, lắng nghe chánh pháp, thường thuyết giảng chánh pháp, thỏa thích trong Vi diệu pháp (abhidhamma), Vi diệu luật (abhivinaya).

7– Tỳ khưu là bậc biết tri túc trong y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc trị bệnh phát sanh do phước duyên.

8– Tỳ khưu là bậc khi bước tới, bước lui, hoặc ngồi trong nhà đều thu thúc lục căn thanh tịnh, xứng đáng để phát sanh đức tin trong sạch nơi Ngài.

9– Tỳ khưu là bậc đã chứng đắc tứ thiền, muốn nhập bậc thiền nào cũng không khó, là pháp hưởng an lạc ở hiện tại.

10– Tỳ khưu là bậc Thánh A–ra–hán đã giải thoát bằng thiền định (ceto vimutti), hoặc thiền tuệ (paññā vimutti), đã diệt đoạn tuyệt mọi phiền não ngấm ngầm không còn dư sót bằng 4 Thánh Ðạo Tuệ trong kiếp hiện tại này.

Này chư Tỳ khưu, Tỳ khưu là bậc Thera hợp với 10 pháp này, thì ở nơi nào cũng được an lạc.

Bậc Thera thật như thế nào?

––––––––––––––––––––––––––––––

Bậc Thera thật không những là bậc có tuổi hạ cao, mà còn kể đến những bậc Sāmaṇera – Sa di đã chứng đắc thành bậc Thánh A–ra–hán.

Trong Chú giải Pháp cú, tích Ngài Lakuṇṇaka–bhaddiyatthera là bậc Thánh A–ra–hán, được tóm lược như sau:

“Một hôm, nhóm 30 Tỳ khưu đến hầu Ðức Thế Tôn, nhìn thấy Ðại Ðức Lakuṇṇakabhaddiya vừa đi ra, thì họ vào đảnh lễ Ðức Thế Tôn rồi ngồi xuống một nơi hợp lẽ.

Ðức Thế Tôn xét thấy nhóm 30 Tỳ khưu này có duyên lành chứng đắc A–ra–hán, nên Ngài hỏi rằng:

– Các con có nhìn thấy một bậc Thera vừa mới đi ra khỏi nơi đây không?

– Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng con không thấy. Bạch Ngài. – Nhóm 30 Tỳ khưu trả lời.

– Vậy các con đã thấy ai vừa đi ra khỏi nơi đây vậy?

– Kính bạch Ðức Thế Tôn, chúng con vừa thấy một Sāmaṇera: Sa di, đi ra. Bạch Ngài.

– Này chư Tỳ khưu, Lakuṇṇaka ấy không phải là Sāmaṇera bình thường, mà là một bậc Thera thật đó!

– Kính bạch Ðức Thế Tôn, vị Sa di còn quá nhỏ. Bạch Ngài.

– Này chư Tỳ khưu, Như Lai không những chỉ gọi người có tuổi cao, hạ lớn ngồi chỗ Ðại Ðức là Thera; mà Như Lai còn gọi bậc nào đã chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo, 4 Thánh Quả, lúc nào cũng không làm khổ mọi người, bậc ấy cũng được gọi là Thera thật, vậy.

Dạy xong, Ðức Thế Tôn thuyết bài kệ rằng:

“Na tena thero so hoti,

Yenassa palitaṃ siro.

Paripakko vayo tassa,

Moghajiṇṇo’ti vuccati.

Yamhi saccañca dhammo ca,

ahiṃsā saṃyamo damo.

Sa ve vantamalo thīro,

“Thero” iti pavuccati”.

–[Dhammapadagāthā, kệ số 260–261.]–

Nghĩa:

Ðầu bạc tuổi tác cao,

Thời lão niên của họ,

Gọi là già vô dụng.

Không phải là Thera.

Người nào giới trong sạch,

Có lục căn thanh tịnh.

Có đầy lòng bi mẫn,

Không làm hại chúng sinh,

Chúng ngộ Tứ thánh đế,

Cùng pháp Siêu tam giới.

Diệt đoạn tuyệt phiền não,

Bằng 4 Thánh Ðạo Tuệ.

Bậc trí ấy gọi là:

“Thera! Thera!” thật.

Nhóm 30 Tỳ khưu khi nghe Ðức Phật thuyết xong hai bài kệ, tất cả đều chứng đắc thành bậc Thánh A–ra–hán.

Trích: Gương Bậc Xuất Gia

Soạn giả: Tỳ Khưu Hộ Pháp

Bài viết liên quan

  • Pavāraṇā – lễ Tự tứ (lễ mời phê bình), Web, FB
  • Lễ hội nước đón mừng năm mới 2016 tại Thiền viện, Web, FB
  • Thadingyut light festival – lễ hội ánh sáng thadingyut 2017, Web Link, Web Link
  • Pavāraṇā – lễ tự tứ 2020, Web, FB
  • Pavāraṇā – lễ tự tứ 2021, Web Link
  • Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
  • Tôi nguyện, Web, FB
  • Tại sao Myanmar, Web, FB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB

Bài viết trên Facebook, 8 October 2022