Món Quà Pháp Bảo Cho Người Thọ Trì Bát Quan Trai Giới Ngày Bố Tát Uposatha

Món Quà Pháp Bảo Cho Người Thọ Trì Bát Quan Trai Giới Ngày Bố Tát Uposatha 17/7/2023: Pháp thoại “Tại sao phải giữ giới – Lợi Ích Của Bố Thí và Trì Giới” – Sumangala Bhikkhu Viên Phúc – Thiền viện Tharmanaykyaw Mahaganghayon Taungyi Myanmar

🍀 Tinh hoa văn hóa (Hướng dẫn Khóa Thiền Minh sát Tứ niệm xứ 2007 của Ngài Đại trưởng lão Thiền Sư U Pandita)

–––––––––––––––––––––––––

Thứ Hai ngày 17/7/2023 là ngày lễ Bố tát Uposatha, do đường truyền internet rất yếu không thể truyền trực tuyến Online Khóa lễ Bố Tát Uposatha như thường lệ, nên chúng tôi xin gửi tới quý đạo hữu cựu thiền sinh các khóa thiền Minh sát Tứ niệm xứ tại Cần Thơ, Phước Sơn, Bà rịa, Hà nội, Hải Phòng CH Séc vv … món quà Pháp bảo: bài Pháp thoại “Tại sao phải giữ giới – Lợi Ích Của Bố Thí và Trì Giới” nhân dịp ngày lễ Bố tát Uposatha này.

Quý đạo hữu hãy sử dụng các video clip của các Khóa lễ Bố tát Uposatha trong thời gian qua, cùng “Tài liệu Khóa lễ”, ở cuối bài viết này, để có thể tự mình thực hiện khóa lễ Bố Tát Uposatha – Bát Quan Trai Giới tại gia, vun bồi thiện nghiệp, tích góp công đức phước báu cho bản thân với trình tự nội dung:

⑴ Sám hối

⑵ Tam qui y

⑶ Thọ trì Bát quan trai giới

⑷ Lắng nghe món quà Pháp bảo: Pháp thoại “Tại sao phải giữ giới – Lợi Ích Của Bố Thí và Trì Giới”

⑸ Thiền tập minh sát Tứ niệm xứ

⑹ Rải tâm từ

⑺ Phát nguyện

⑻ Hồi hướng công đức

Nguyện cho oai đức Tam Bảo hộ trì cho đạo hữu cùng tất cả mọi người trong gia đình luôn được khỏe mạnh, thành công, an vui, và hạnh phúc, luôn tinh tấn làm lành, lánh dữ, thanh lọc tâm, vun bồi phước thiện Bố thí – Trì giới – Hành thiền tạo duyên lành giúp sớm giác ngộ, giải thoát hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau, phiền não, chấm dứt luân hồi sinh tử trong tam giới, đạt được hạnh phúc thật sự, tự do thật sự – Niết bàn.

Idaṁ me puññaṁ Nibbānassa paccayo hotu.

Nguyện cho phước thiện này của chúng tôi sẽ là duyên lành tới Niết bàn.

Imaṁ no puñña bhāgaṁ sabba–sattānaṁ dema.

Chúng tôi xin chia sẻ hồi hướng các phước thiện này tới tất cả mọi chúng sinh.

Sabbe sattā sukhitā hontu.

Nguyện cho tất cả mọi chúng sinh luôn được an vui hạnh phúc.

Trong tâm từ,

Sumangala Bhikkhu Viên Phúc

––––––––––––––––––––––––––––––

🍀 Xem lại Video Khóa lễ Bố tát Uposatha đã thực hiện trong thời gian vừa qua:

––––––––––––––––––––––––––––––

  • Ngày 4/2/2023 – “chánh niệm trong đời sống thường ngày”, Web Link
  • Ngày 18/2/2023 – “hãy trân quý từng phút giây: niệm chết”, Web Link
  • Ngày 5/3/2023 – “như lý tác ý trong đời sống thường ngày”, Web Link
  • Ngày 20/3/223 – “tỉnh giác trong đời sống thường ngày”, Web Link
  • Ngày 4/4/2023 – “tinh tấn trong thiền tập là như thế nào?”, Web Link
  • Ngày 18/4/2023 – “hòa giải các đối nghịch trong tâm như thế nào?”, Web Link
  • Ngày 2/7/023 – “con đường cổ xưa – satipaṭṭhāna: con đường duy nhất chứng ngộ niết bàn”, Web Link

––––––––––––––––––––––––––––––

🍀 TÀI LIỆU CẦN ĐƯỢC IN RA ĐỂ SỬ DỤNG TRONG KHÓA LỄ BỐ TÁT UPOSATHA

––––––––––––––––––––––––––––––

SÁM NGUYỆN – 1

––––––––––––––––––––––––––––––

Cúi đầu kính lễ

Ba ngôi Tam Bảo

Vô thượng tôn Phật

Vi diệu Chánh Pháp

Thánh đức Tăng Già

Ðệ tử bao đời

Sanh tử trầm luân

Không thông lẽ thật

Khổ tập diệt đạo

Chẳng hiểu đường ngay

Tam học Bát chánh

Từ lâu lầm lạc

Vô minh bao phủ

Ái dục buộc ràng

Sở hành bất thiện

Ba nghiệp tội dày

Nhân quả oan khiên

Sát sinh hại vật

Trộm cắp tà dâm

Nói sai sự thật

Ác ý rẽ chia

Buông lung phiếm luận

Tham lam sân ác

Tà kiến chấp sai

Si mê ngu dại

Mạn khinh Tam Bảo

Chẳng tin nghiệp báo

Lẫn lộn chánh tà

Giao du bạn ác

Vong ơn tự mãn

Xem thường thầy tổ

Bất kính sa môn

Không màng đại nghĩa

Quên khổ tha nhân

Chẳng tình đồng loại

Vô tâm bất hiếu

Không nhớ công cha

Chẳng màng nghĩa mẹ

Hỗn hào phạm thượng

Phóng túng loạn tâm

Say đắm dục trần

Sáu căn buông thả

Không tin đạo cả

Thiếu chí tu hành

Rơi vào sa đọa

Nay nhờ Pháp Phật

Soi đường chỉ lối

Tự biết lỗi lầm

Thành tâm sám hối

Chân thật dọn lòng

Tìm về nẻo sáng

Làm lành bỏ dữ

Thanh lọc tâm ý

Thương vật thương người

Dưỡng tánh từ bi

Tu đức hỉ xả

Hiếu kính mẹ cha

Học làm con thảo

Trọn đời ngay thẳng

Suốt kiếp hướng về

Tam Bảo tựa nương

Ngưỡng mong Đức Phật

Ân đức cao vời

Từ bi chứng giám

Đệ tử chúng con

Tác thành sở nguyện

Nam mô Phật–Pháp–Tăng Tam Bảo

Nam mô Phật–Pháp–Tăng Tam Bảo

Nam mô Phật–Pháp–Tăng Tam Bảo (lạy)

SÁM NGUYỆN – 2

––––––––––––––––––––––––––––––

Okāsa! Okāsa! Okāsa!

Vì mong muốn tránh khỏi

Tất cả những lỗi lầm,

Do thân nghiệp hành động,

Do khẩu nghiệp nói năng,

Do ý nghiệp suy nghĩ,

Đã phạm đến Tam Bảo:

– Đức Phật Bảo cao thượng,

– Đức Pháp Bảo cao thượng,

– Đức Tăng Bảo cao thượng,

Đến cha mẹ, thầy tổ…

Con thành kính đảnh lễ,

Ngôi Tam Bảo cao thượng,

Cùng cha mẹ thầy tổ,

Như vậy lần thứ nhì

Con thành kính đảnh lễ,

Ngôi Tam Bảo cao thượng,

Cùng cha mẹ thầy tổ,

Như vậy lần thứ ba

Con thành kính đảnh lễ,

Ngôi Tam Bảo cao thượng,

Cùng cha mẹ thầy tổ,

Xin năm bậc ân đức,

Cao thượng không gì bằng,

Nhận biết sự sám hối,

Những lỗi lầm của con.

Do thành tâm sám hối,

Với đức tin trong sạch,

Thiện tâm hợp trí tuệ,

Cầu mong con tránh khỏi:

(1) Sanh trong bốn cõi ác,

[(1) Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a–tu–la]

(2) Gặp phải ba nạn tai,

[(2) Nạn bom đạn chiến tranh, nạn dịch bệnh truyền nhiễm, nạn chết đói]

(3) Tám trường hợp bất lợi,

[(3) Sanh trong địa ngục; sanh làm súc sanh; ngạ quỷ; cõi Phạm Thiên; sanh ở vùng hẻo lánh; sanh trong gia đình ngoại đạo tà kiến; người câm điếc; người có trí tuệ nhưng không gặp được Đức Phật, Tăng Chúng.]

(4) Năm kẻ thù phá hoại,

[(4) Nước lụt phá hủy của cải tài sản; lửa cháy thiêu hủy của cải tài sản; con cái hư đốn làm tiêu tan của cải tài sản.]

(5) Bốn rủi ro bất hạnh,

[ (5) Địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, a–tu–la.]

(6) Năm mất mát kiếp người

[(6) 1– Bệnh tật, 2– Gia đình ly tán, 3– Của cải tài sản hư hao, 4– Giới không trong sạch, 5– Tà kiến.]

Trong tất cả mọi thời,

Mọi kiếp sống luân hồi,

Khi đã tránh khỏi rồi,

Mong con sớm chứng ngộ:

Chân lý Tứ Thánh Đế,

Chứng đắc Tứ Thánh Đạo,

Tứ Thánh Quả – Niết Bàn,

Diệt đoạn tận tham ái,

Giải thoát khổ tử sinh,

Luân hồi trong tam giới.

Nam mô Phật–Pháp–Tăng Tam Bảo

Nam mô Phật–Pháp–Tăng Tam Bảo

Nam mô Phật–Pháp–Tăng Tam Bảo (lạy)

THỈNH TRUYỀN TAM QUI – NGŨ GIỚI / BÁT QUAN TRAI GIỚI

––––––––––––––––––––––––––––––

Ahaṁ bhante tisaraṇena saha [pancasīlaṁ] /[aṭṭhaṅga samannāgataṁ upoathasīlaṁ] dhammaṁ yācāmi, anuggahaṁ katvā sīlaṁ detha me bhante.

Dutiyampi, …

Tatiyampi, …

Bạch Ngài, con xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới / Bát Quan Trai Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích.

Bạch Ngài, con xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới / Bát Quan Trai Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ nhì.

Bạch Ngài, con xin thọ trì Tam Quy và Ngũ Giới / Bát Quan Trai Giới nơi Tam Bảo, để vâng giữ hành theo cho được sự lợi ích, lần thứ ba.

ĐẢNH LỄ – VANDANA

––––––––––––––––––––––––––––––

Namo tassa bhagavato arahato sammāsambuddhasa. (3 lần)

Con đem hết lòng thành kính làm lễ Đức Thế Tôn, Ngài là bậc Ứng Cúng cao thượng, được chứng quả Chánh Biến tri. (3 lần)

TAM QUY – TISARAṆA

––––––––––––––––––––––––––––––

Buddhaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Phật

Dhammaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Pháp.

Saṁghaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Tăng.

Dutiyampi Buddhaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Phật lần thứ nhì.

Dutiyampi Dhammaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Pháp lần thứ nhì.

Dutiyampi Saṁghaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Tăng lần thứ nhì.

Tatiyampi Buddhaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Phật lần thứ ba.

Tatiyampi Dhammaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Pháp lần thứ ba.

Tatiyampi Saṁghaṁ saranaṁ gacchāmi.

Con xin quay về nương tựa nơi (quy y) Tăng lần thứ ba.

Đại đức: Saraṇagamanaṁ paripuṇṇaṁ.

Đảnh lễ và quy y đã xong.

Phật tử: Āma Bhante, Dạ, thưa Ngài.

NGŨ GIỚI / BÁT QUAN TRAI GIỚI

––––––––––––––––––––––––––––––

1. Pāṇātipātā veramaṇī sikkhāpadaṁ samādiyāmi

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự sát sanh.

2. Adinnādānā veramaṇī sikkhāpadaṁ samādiyāmi

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự trộm cắp.

3. Kāmesu micchācārā veramaṇī sikkhāpadaṁ samādiyāmi.

*3. Abrahma–cariyā veramaṇī sikkhāpadaṃ samādiyāmi

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự tà / hành dâm.

4. Musāvādā veramaṇī sikkhāpadaṁ samādiyāmi.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự nói lời sai trái.

5. Surā–meraya–majja pamādaṭṭhānā veramaṇī sikkhāpadaṁ samādiyāmi.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa việc sử dụng các chất say làm mê mờ tâm trí và suy giảm chánh niệm.

*6. Vikāla–bhojanā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự ăn sái giờ.

*7. Nacca gīta vādita visūka dassana mālāgandha vilepana dhāraṇa maṇḍana vibhūsanaṭṭhānā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa sự múa hát, thổi kèn, đờn, xem múa hát, nghe đờn kèn, trang điểm thoa vật thơm, dồi phấn, đeo tràng hoa.

*8. Uccāsayana mahāsayanā veramanī sikkhāpadaṃ samādiyāmi.

Con xin vâng giữ điều học là cố ý tránh xa chỗ nằm ngồi quá cao và xinh đẹp.

Idaṁ me sīlaṁ magga–phala–ñāṇassa paccayo hotu.

Mong sự giữ giới của tôi sẽ là duyên lành cho việc thành đạt Đạo Quả.

Đại đức:

Sīlena sugatiṃ yanti

sīlena bhogasampadā

sīlena nibutiṃ yanti.

Tasmā sīlaṃ visodhaye.

Các chúng sanh được sinh về cõi trời cũng nhờ giữ giới; được giầu sang cũng nhờ giữ giới; được giải thóat nhập Niết Bàn cũng nhờ giữ giới.

Bởi các cớ ấy nên chư Thiện tín hãy ráng thọ trì giới luật trong sạch đừng để lấm nhơ.

Appamādena sampādetha.

Hãy nỗ lực giữ giới đừng có buông lung phóng dật.

Phật tử: Āma Bhante

––––––––––––––––––––––––––––––

– Ngoài việc giữ 8 giới trọn vẹn, thanh tịnh, nên làm các thiện nghiệp khác như bố thí, cúng dường, phóng sanh, làm công quả nơi chùa tháp, học tập Giáo pháp, tụng kinh, giảng giải cho nhau về pháp học pháp hành, lắng nghe pháp thoại, hành thiền … để vun bồi công đức và phước báu cho đời nay và đời sau, tạo duyên lành giúp sớm chứng ngộ Niết Bàn trong ngày vị lai.

LỢI ÍCH

––––––––––––––––––––––––––––––

– Thực hành như trên, ngày trai giới thành tựu tám chi phần, được thực hành thời có được quả lớn, có lợi ích lớn, có rực rỡ lớn; có biến mãn lớn:

“Ví như, này các Tỷ–kheo, có người áp đặt chủ quyền cai trị trên mười sáu quốc độ lớn này tràn đầy bảy báu, như Anga, Magadha, Kàsìkosala, Vajjì, Cetì, Vamsà, Kurù, Pancàlà, Macchà, Sùrasenà, Asska, Avantì, Gandhàrà, Kambojà. Nhưng chủ quyền ấy không bằng một phần mười sáu của một ngày trai giới thành tựu tám chi phần. Vì cớ sao? Nhỏ nhoi, này các Tỷ–kheo, là quyền của loài người, so sánh với hạnh phúc chư Thiên.”

“Chính hạnh trai giới này

Ðược gọi có tám phần

Do đức Phật nói lên

Ðưa đến đoạn tận khổ

Mặt trăng và mặt trời

Cả hai thấy lành tốt

Chỗ nào chúng đi tới,

Chúng chói sáng hào quang

Chúng làm mây sáng chói

Giữa hư không chúng đi

Trên trời chúng chói sáng

Sáng rực mọi phương hướng

Trong khoảng không gian ấy

Tài sản được tìm thấy

Trân châu và ngọc báu

Lưu ly đá cầu may

Vàng cục trong lòng đất

Hay loại Kancana

Cùng loại vàng sáng chói

Ðược gọi Hataka

Tuy vậy chúng giá trị

Chỉ một phần mười sáu

Với hạnh giữ trai giới

Ðầy đủ cả tám mặt

Kể cả ánh sáng trăng

Với cả vòm trời sao

Vậy người nữ, người nam

Giữ gìn theo tịnh giới

Hành Bồ–tát trai giới

Ðầy đủ cả tám mặt

Làm các thiện công đức

Ðem lại nhiều an lạc

Ðược sanh lên cõi trời

Không bị người cười chê.”

––––––––––––––––––––––––––––––

Lễ Phật Bảo

––––––––––––––––––––––––––––––

Cội bồ đề trang nghiêm thiền tịnh

Thắng thiên ma vạn chướng trùng trùng

Con xin lạy đấng Ðại Hùng

Rọi vô biên trí tận cùng thế gian

Từ quá khứ vô vàn Phật hiện

Ở tương lai vô lượng Phật thành

Hiện tiền chư Phật độ sanh

Con xin kính lễ tâm minh nguyện cầu

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng Cúng

Chánh Biến Tri Minh Hạnh đủ đầy

Ðức ân Thiện Thệ cao dày

Bậc Thế Gian Giải chỉ bày lý chân

Vô Thượng Sĩ pháp âm tịnh diệu

Bậc Trượng Phu Ðiều Ngự độ sanh

Thiên Nhân Sư đấng cha lành

Phật Ðà toàn giác – Thế Tôn trong đời

Phật là nơi nương nhờ tối thượng

Cho chúng con vô lượng an lành

Qui y Phật Bảo từ ân

Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên

Gieo năm vóc trọn niềm sám hối

Những sở hành lầm lỗi vô minh

Từ thân khẩu ý khởi sanh

Ngưỡng mong Phật Bảo đức lành từ dung (lạy)

––––––––––––––––––––––––––––––

Lễ Pháp Bảo

––––––––––––––––––––––––––––––

Bát thánh đạo con đường chánh giác

Ðưa chúng sanh vượt thoát trầm luân

Chân truyền diệu pháp thánh nhân

Con xin tịnh ý nghiêm thân thực hành

Từ quá khứ vô vàn Diệu Pháp

Ở tương lai vô lượng Pháp mầu

Hiện tiền Phật Pháp thâm sâu

Thuyền từ phương tiện bắc cầu độ sanh

Pháp vi diệu cha lành khéo dạy

Lìa danh ngôn giác ngộ hiện tiền

Vượt thời gian chứng vô biên

Sát na đại ngộ hoát nhiên liễu tường

Ðạo vô thượng đến rồi thấy rõ

Hướng thượng tâm thoát ngõ vọng trần

Trí nhân tự ngộ giả chân

Diệu thường tịnh lạc Pháp ân nhiệm mầu

Pháp là nơi nương nhờ tối thượng

Cho chúng con vô lượng an lành

Qui y Pháp Bảo chánh chân

Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên

Gieo năm vóc trọn niềm sám hối

Những sở hành lầm lỗi vô minh

Từ thân khẩu ý khởi sanh

Ngưỡng mong Pháp Bảo đức lành từ dung (lạy)

––––––––––––––––––––––––––––––

Lễ Tăng Bảo

––––––––––––––––––––––––––––––

Hoà hợp chúng Tăng Già thanh tịnh

Ðức vô song tứ thánh sa môn

Thừa hành di giáo Thế Tôn

Ðời đời tương tục bốn phương phổ hoằng

Từ quá khứ vô vàn Tăng Chúng

ở tương lai vô lượng thánh hiền

Hiện tiền Tăng Bảo phước điền

Con xin kính lễ gieo duyên Niết bàn

Bậc diệu hạnh thinh văn Thích Tử

Bậc trực hạnh pháp lữ thiền gia

Bậc như lý hạnh Tăng Già

Bậc chơn chánh hạnh dưới toà Thế Tôn

Thành đạo quả bốn đôi tám chúng

Ðệ tử Phật ứng cúng tôn nghiêm

Cung nghinh kính lễ một niềm

Thánh chúng vô thượng phước điền thế gian

Tăng là nơi nương nhờ tối thượng

Cho chúng con vô lượng an lành

Qui y Tăng Bảo tịnh thanh

Nguyện lời chân thật tác thành thắng duyên

Gieo năm vóc trọn niềm sám hối

Những sở hành lầm lỗi vô minh

Từ thân khẩu ý khởi sanh

Ngưỡng mong Tăng Bảo đức lành từ dung (lạy)

––––––––––––––––––––––––––––––

Kinh Hạnh Phúc

––––––––––––––––––––––––––––––

Như vầy tôi nghe

Một thời Thế Tôn

Ngự tại Kỳ Viên

Tịnh xá cúng bởi

Ngài Cấp Cô Ðộc

Gần thành Xá Vệ

Khi đêm gần mãn

Có một vị trời

Dung sắc thù thắng

Hào quang chiếu diệu

Sáng tỏa Kỳ Viên

Ðến nơi Phật ngự

Ðảnh lễ Thế Tôn

Rồi đứng một bên

Cung kính bạch Phật

Bằng lời kệ rằng:

Chư thiên và nhân loại

Suy nghĩ điều hạnh phúc

Hằng tầm cầu mong đợi

Một đời sống an lành

Xin ngài vì bi mẫn

Hoan hỷ dạy chúng con

Về phúc lành cao thượng

Thế Tôn tùy lời hỏi

Rồi giảng giải như vầy:

Không gần gũi kẻ ác

Thân cận bậc trí hiền

Cúng dường bậc tôn đức

Là phúc lành cao thượng

Ở trú xứ thích hợp

Công đức trước đã làm

Chân chánh hướng tự tâm

Là phúc lành cao thượng

Ða văn nghề nghiệp giỏi

Khéo huấn luyện học tập

Nói những lời chân thật

Là phúc lành cao thượng

Hiếu thuận bậc sinh thành

Chăm sóc vợ và con

Sống bằng nghề lương thiện

Là phúc lành cao thượng

Bố thí, hành đúng Pháp

Giúp ích hàng quyến thuộc

Hành vi không lổi lầm

Là phúc lành cao thượng

Xả ly tâm niệm ác

Tự chế không say sưa

Tinh cần trong thiện pháp

Là phúc lành cao thượng

Biết cung kính khiêm nhường

Tri túc và tri ân

Ðúng thời nghe Chánh pháp

Là phúc lành cao thượng

Nhẫn nhục tánh thuần hoá

Thường yết kiến sa môn

Tùy thời đàm luận Pháp

Là phúc lành cao thượng

Thiền định sống phạm hạnh

Thấy được lý thánh đế

Chứng ngộ quả niết bàn

Là phúc lành cao thượng

Khi xúc chạm việc đời

Tâm không động không sầu

Tự tại và vô nhiễm

Là phúc lành cao thượng

Những sở hành như vậy

Không chỗ nào thối thất

Khắp nơi được an toàn

Là phúc lành cao thượng (lạy)

––––––––––––––––––––––––––––––

Kinh Tâm Từ

––––––––––––––––––––––––––––––

Hiền nhân cầu an lạc

Nên huân tu pháp lành

Có nghị lực chân chất

Ngay thẳng và nhu thuận

Hiền hoà không kiêu mạn

Sống dễ dàng tri túc

Thanh đạm không rộn ràng

Lục căn luôn trong sáng

Trí tuệ càng hiển minh

Tự trọng không quyến niệm

Không làm việc ác nhỏ

Mà bậc trí hiền chê

Nguyện thái bình an lạc

Nguyện tất cả sanh linh

Tràn đầy muôn hạnh phúc

Với muôn loài chúng sanh

Không phân phàm hay thánh

Lớn nhỏ hoặc trung bình

Thấp cao hay dài ngắn

Tế thô không đồng đẳng

Hữu hình hoặc vô hình

Ðã sanh hoặc chưa sanh

Gần xa không kể xiết

Nguyện tất cả sanh linh

Tràn đầy muôn hạnh phúc

Ðừng làm hại lẫn nhau

Chớ khinh rẻ người nào

Ở bất cứ nơi đâu

Ðừng vì niệm sân si

Hoặc hiềm hận trong lòng

Mà mong người đau khổ

Hãy mở rộng tình thương

Hy sinh như từ mẫu

Suốt đời lo che chở

Ðứa con một của mình

Hãy phát tâm vô lượng

Ðến tất cả sanh linh

Từ bi gieo cùng khắp

Cả thế gian khổ ải

Trên dưới và quanh mình

Không hẹp hòi oan trái

Không hờn giận căm thù

Khi đi đứng ngồi nằm

Bao giờ còn tỉnh thức

An trú chánh niệm này

Phạm hạnh chính là đây

Ai từ bỏ kiến chấp

Khéo nghiêm trì giới hạnh

Thành tựu được chánh trí

Không ái nhiễm dục trần

Không còn thai sanh nữa (lạy)

––––––––––––––––––––––––––––––

Kinh Châu Báu

––––––––––––––––––––––––––––––

25. Bi tâm được phát khởi

như Ngài Ā–nan–da,

khi tụng đọc Hộ trì (Paritta)

trọn đủ ba canh đêm

kinh hành trong ba vòng

thành lũy Ve–sā–li,

Ân đức của Đức Phật

được suy xét tận tường

kể từ khi phát nguyện

của Ngài Đấng Như Lai:

+ Ba mươi Ba – la – mật

mười hạ Ba – la – mật

mười trung Ba – la – mật

mười thượng Ba – la – mật,

+ Cả năm pháp đại thí,

+ Và cả ba pháp hạnh

thiện hạnh cho thế gian

thiện hạnh cho thân quyến

thiện hạnh cho Giác ngộ,

+ Nhập thai bào kiếp chót,

+ Đản sinh và xuất gia,

+ Tinh tấn trì khổ hạnh,

+ Bồ đề đoàn kiết già

chiến thắng vượt Ma vương,

+ Chứng đạt Toàn tri Trí,

+ Vận chuyển bánh xe Pháp

Chín Pháp xuất thế gian

26 – 27. Chư thiên khắp mọi nơi

Trong triệu triệu thế gian,

Đều thừa nhận oai lực

Từ sự Hộ trì (Paritta) này,

Khiến ba sự sợ hãi:

Bệnh, phi nhân, nạn đói

Trong thành Ve–sā–lī

Được tiêu tan nhanh chóng.

Vậy chúng ta hãy tụng

Bản Kinh hộ trì này.

28. Phàm ở tại đời này,

Có sanh linh tụ hội,

Hoặc trên cõi đất này,

Hoặc chính giữa hư không,

Mong rằng mọi sanh linh,

Ðược đẹp ý vui lòng,

Và rồi nên kính cẩn,

Lắng nghe lời dạy này.

29. Do vậy các sanh linh,

Tất cả hãy chú tâm,

Hãy khởi lòng từ mẫn,

Ðối với mọi loại người,

Ban ngày và ban đêm,

Họ kính lễ cúng dường,

Do vậy hãy tinh cần,

Hộ trì bảo vệ họ.

30. Phàm có báu vật gì,

Nơi này hay nơi khác,

Hay ở trên thiên giới,

Dù châu báu thù thắng,

Không sánh bằng Như Lai,

Như vậy, nơi Ðức Phật,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

31. Ðoạn diệt và ly tham,

Bất tử và thù diệu.

Phật Thích–ca Mâu–ni,

Chứng Pháp ấy trong thiền,

Không gì sánh bằng được,

Với Pháp thù diệu ấy.

Như vậy, nơi Chánh Pháp,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

32. Phật, Thế Tôn thù thắng,

Nói lên lời tán thán,

Pháp thù diệu trong sạch,

Liên tục không gián đoạn,

Không gì sánh bằng được,

Pháp thiền vi diệu ấy.

Như vậy, nơi Chánh Pháp,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

33. Tám vị bốn đôi này,

Ðược bậc thiện tán thán.

Chúng đệ tử Thiện Thệ,

Xứng đáng được cúng dường.

Bố thí các vị ấy,

Ðược kết quả to lớn.

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

34. Các vị lòng ít dục,

Với ý thật kiên trì,

Khéo liên hệ mật thiết,

Lời dạy Gô–ta–ma!

Họ đạt được quả vị,

Họ thể nhập bất tử,

Họ chứng đắc dễ dàng,

Hưởng thọ sự tịch tịnh,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

35. Như cây trụ cột đá,

Khéo y tựa lòng đất.

Dầu có gió bốn phương,

Cũng không thể dao động.

Ta nói bậc Chân nhân,

Giống như thí dụ này,

Vị thể nhập với tuệ,

Thấy được những Thánh đế,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

36. Những vị khéo giải thích,

Những sự thật Thánh đế,

Những vị khéo thuyết giảng,

Với trí tuệ thâm sâu.

Dầu họ có hết sức,

Phóng dật không chế ngự,

Họ cũng không đến nỗi,

Sanh hữu lần thứ tám,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

37. Vị ấy nhờ đầy đủ,

Với chánh kiến sáng suốt,

Do vậy có ba pháp,

Ðược hoàn toàn từ bỏ,

Thân kiến và nghi hoặc,

Giới cấm thủ cũng không,

Ðối với bốn đọa xứ,

Hoàn toàn được giải thoát.

Vị ấy không thể làm,

Sáu điều ác căn bản,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

38. Dầu vị ấy có làm,

Ðiều gì ác đi nữa,

Với thân hay với lời,

Kể cả với tâm ý,

Vị ấy không có thể,

Che đậy việc làm ấy,

Việc ấy được nói rằng,

Không thể thấy ác đạo.

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

39. Ðẹp là những cây rừng,

Có bông hoa đầu ngọn,

Trong tháng hạ nóng bức,

Những ngày hạ đầu tiên,

Pháp thù thắng thuyết giảng,

Ðược ví dụ như vậy.

Pháp đưa đến Niết Bàn,

Pháp hạnh phúc tối thượng,

Như vậy, nơi Ðức Phật,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

40. Cao thượng biết cao thượng,

Cho đem lại cao thượng,

Bậc Vô thượng thuyết giảng,

Pháp cao thượng thù thắng,

Như vậy nơi đức Phật,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

41. Nghiệp cũ đã đoạn tận,

Nghiệp mới không tạo nên,

Với tâm tư từ bỏ,

Trong sanh hữu tương lai,

Các hột giống đoạn tận,

Ước muốn không tăng trưởng

Bậc trí chứng Niết Bàn,

Ví như ngọn đèn này,

Như vậy, nơi Tăng chúng,

Là châu báu thù diệu,

Chính bởi sự thật này,

Ðược an lành hạnh phúc.

42. Phàm ở tại đời này,

Có sanh linh tụ hội,

Hoặc trên cõi đất này,

Hoặc chính giữa hư không,

Hãy đảnh lễ Ðức Phật,

Như Lai được Trời, Người,

Ðảnh lễ và cúng dường,

Mong rằng với hạnh này,

Mọi loài được hạnh phúc.

43. Phàm ở tại nơi này,

Có sanh linh tụ hội,

Hoặc trên cõi đất này,

Hoặc chính giữa hư không,

Hãy đảnh lễ Chánh pháp,

Như Lai được Trời, Người,

Ðảnh lễ và cúng dường,

Mong rằng với hạnh này,

Mọi loài được hạnh phúc.

44. Phàm ở tại đời này,

Có sanh linh tụ hội

Hoặc trên cõi đất này,

Hoặc chính giữa hư không,

Hãy đảnh lễ chúng Tăng,

Như Lai được Trời, Người,

Ðảnh lễ và cúng dường,

Mong rằng với hạnh này,

Mọi loài được hạnh phúc.

(Sumangala Bhikkhu Viên Phúc hiệu đính)

––––––––––––––––––––––––––––––

Kinh Suy Niệm Về Nghiệp

––––––––––––––––––––––––––––––

Tất cả mọi chúng sanh

là chủ nhân của nghiệp

là kẻ thừa tự nghiệp.

Nghiệp chính là thai tạng,

cũng chính là quyến thuộc,

điểm tựa cho vạn loài.

Chính nghiệp đã phân chia

sự dị biệt cao thấp

trong đời sống thế gian.

Chính mình làm việc ác

nên khiến mình uế trược.

Chính mình làm việc lành

nên khiến mình thanh tịnh.

Thanh tịnh hay uế trược,

đều là do chính mình,

không ai có thể khiến

người khác được thanh tịnh

hay uế trược nhiễm ô.

Tâm dẫn đầu các pháp,

chính tâm là chủ trì

tạo tác nên các nghiệp.

Nếu như người nói năng

hay hành động tạo tác

với tâm bất thiện lành

thì đau khổ sẽ theo

như bánh xe sau chân

sát kề con vật kéo.

Tâm dẫn đầu các pháp,

chính tâm là chủ trì

tạo tác nên các nghiệp.

Nếu như người nói năng

hay hành động tạo tác

với tâm lành hiền thiện

thì hạnh phúc sẽ theo

như bóng không rời hình.

Khi ác nghiệp chưa trổ

người ác chưa thấy ác.

Khi quả nghiệp kết trái

người ác mới thấy ác.

Khi thiện nghiệp chưa trổ

người thiện chưa thấy thiện.

Khi quả nghiệp kết trái

người thiện mới thấy thiện.

Không phải do thọ sanh

trong dòng dõi gia đình

mà một người cao quí

hay thấp hèn đáng khinh.

Chính hành vi tạo tác

khiến người thành thấp hèn

hay cao sang quyền quí.

Chúng sanh là kết tinh

của những gì đã tạo

và sẽ là kết quả

của những gì đang tạo.

Quá khứ và hiện tại,

kết nối cùng tương lai

bằng những tác ý thiện

hay tác ý bất thiện.

Ðời này sống đau khổ,

đời sau cũng đau khổ,

người tạo nghiệp bất thiện

đau khổ cả hai đời.

Xét ác nghiệp đã làm

khiến lòng đầy sầu khổ,

sinh vào bốn khổ cảnh

nỗi khổ càng nhiều hơn.

Kiếp này sống an lạc,

kiếp sau cũng an lạc,

người tạo nghiệp thiện lành

hai đời sống an lạc.

Xét việc thiện đã làm

tự tâm đầy hoan hỷ,

sanh thú vào lạc cảnh

hạnh phúc càng nhiều hơn. (lạy)

––––––––––––––––––––––––––––––

Từ Bi Nguyện

––––––––––––––––––––––––––––––

Nguyện cầu tám hướng mười phương

Chúng sanh muôn loại hãy thường an vui

Dứt trừ oan trái nhiều đời

Bao nhiêu đau khổ đến hồi duyên tan

Hại nhau chỉ chuốc lầm than

Mê si điên đảo vô vàn lệ châu

Chúng sanh vô bệnh sống lâu

Nguyện cho thành tựu phước sâu đức dày

Nguyện cho an lạc từ nay

Dứt trừ thống khổ đắng cay oán hờn

Dứt trừ kinh sợ tai ương

Bao nhiêu phiền não đoạn trường viễn ly

Nguyện cầu Tam Bảo chứng tri

Sống đời thanh tịnh từ bi vẹn toàn (lạy)

––––––––––––––––––––––––––––––

Hồi Hướng Công Đức

––––––––––––––––––––––––––––––

Con xin hồi hướng phước lành

Khắp cùng pháp giới chúng sanh gội nhuần

Mẹ cha thầy tổ thân nhân

Hiện tiền quá vãng trọn phần phước duyên

Cầu xin hộ pháp chư thiên

Phát tâm hoan hỷ báo truyền gần xa

Cầu cho mưa thuận gió hoà

Pháp luân thường chuyển nhà nhà an khương

Chúng sanh ba cõi sáu đường

Do nhờ thực phẩm bảo tồn mạng căn

Nghiệp lành từ khẩu ý thân

Hoá thành phúc quả tùy nhân sở cầu (lạy)

––––––––––––––––––––––––––––––

Phổ Nguyện

––––––––––––––––––––––––––––––

Nguyện công đức đã làm

Kết duyên lành giải thoát

Ðệ tử và chúng sanh

Ðồng viên thành Đạo Quả (lạy)

– Hết trích dẫn –

Nguồn trích dẫn: Phật Giáo Nguyên Thủy – Nghi Thức Tụng Niệm [Sumangala Bhikkhu Viên Phúc hiệu đính]

https://budsas.net/uni/u–nghithuc–tung/nthuc00.htm

––––––––––––––––––––––––––––––

CÚNG DƯỜNG NĂM ÂN ĐỨC – PAÑCA GUṆA PŪJĀ

––––––––––––––––––––––––––––––

Imāya Dhammānu dhamma–patipattiyā Buddhaṁ pūjemi.

Với sự thực tập theo đúng Giáo Pháp, con xin hết lòng tôn kính Phật.

Imāya Dhammānu dhamma–patipattiyā Dhammaṁ pūjemi.

Với sự thực tập theo đúng Giáo Pháp, con xin hết lòng tôn kính Pháp.

Imāya Dhammānu dhamma–patipattiyā Saṁghaṁ pūjemi.

Với sự thực tập theo đúng Giáo Pháp, con xin hết lòng tôn kính Tăng.

Imāya Dhammānu dhamma–patipattiyā mātāpitaro pūjemi.

Với sự thực tập theo đúng Giáo Pháp, con xin hết lòng tôn kính Cha Mẹ.

Imāya Dhammānu dhamma–patipattiyā ācariye pūjemi.

Với sự thực tập theo đúng Giáo Pháp, con xin hết lòng tôn kính Thầy Tổ.

––––––––––––––––––––––––––––––

PHÁT NGUYỆN VÀ HỒI HƯỚNG CÔNG ĐỨC

––––––––––––––––––––––––––––––

Addhāimāya patipattiyā jarā maraṇamhā parimuccissāmi.

Với sự hành thiền, mong cho tôi được thoát khỏi sự khổ của già và chết.

Idaṁ me puññaṁ āsavak–khayā–vahaṁ hotu.

Mong cho phước báu của tôi sẽ đem lại sự đoạn tận các lậu hoặc.

Idaṁ me sīlaṁ magga–phala–ñānassa paccayo hotu.

Mong cho giới hạnh của tôi sẽ là duyên lành cho sự thành đạt Đạo, Quả.

Imaṁ no puñña bhāgaṁ sabba–sattānaṁ dema.

Chúng tôi xin hồi hướng phước báu đến tất cả chúngsanh.

Sabbe sattā sukhitā hontu.

Mong tất cả chúng sanh mạnh khỏe và an vui.

Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Lành thay! Lành thay! Lành thay!

🍀 KẾT THÚC KHÓA LỄ UPOSATHA 🍀

––––––––––––––––––––––––––––––

BẢN PALI CỦA BA BÀI KINH HỘ TRÌ PARITTA ĐÃ TỤNG ĐỌC TRONG KHÓA LỄ BÁT QUAN TRAI GIỚI – BỐ TÁT UPOSATHA

––––––––––––––––––––––––––––––

❶ MAṄGALA SUTTA – KINH HẠNH PHÚC

––––––––––––––––––––––––––––––

10. Yaṃ maṅgalaṃ dvā–dasahi, cintayiṃsu sa–devakā, / sotthānaṃ nā’dhigacchanti, aṭṭha–ttiṃsañ–ca maṅgalaṃ. /

10. Loài người cùng với chư thiên đã tìm kiếm những điều hạnh phúc trong suốt mười hai năm. (Nhưng) họ không đạt được sự hạnh phúc có ba mươi tám điều hạnh phúc.

11. Desitaṃ deva–devena, sabba–pāpa–vināsanaṃ, / sabba–loka–hita’tthāya, maṅgalaṃ taṃ bhaṇāma he./

11. Xin các bậc hiền trí! Hãy để chúng tôi tụng đọc (những) điều hạnh phúc này đã được đức Phật (vh. chúa của các chư thiên) thuyết giảng có sự đoạn tận tất cả các điều ác; vì lợi ích cho tất cả thế giới.

12. Evaṃ me sutaṃ, / ekaṃ samayaṃ Bhagavā Sāvatthiyaṃ viharati / Jeta–vane A–nātha–piṇḍi’kassa ārāme. / Atha kho aññatarā devatā / abhi–kkantāya rattiyā abhi–kkanta–vaṇṇā/ kevala–kappaṃ Jeta–vanaṃ obhāsetvā / yena Bhagavā tenu’pa–saṅ–kami; / upa–saṅ–kami–tvā Bhagavantaṃ abhi–vādetvā eka–m–antaṃ aṭṭhāsi. / Eka–m–antaṃ ṭhitā kho sā devatā / Bhagavantaṃ gāthāya ajjhabhāsi. /

12. Điều đã được tôi nghe như vậy: Một thời đức Thế Tôn ngự tại tu viện của ông Anāthapiṇḍika, ở Jetavana, thành Sāvatthī. Khi ấy đêm đã khuya, có một vị trời, hào quang thù thắng chiếu sáng gần trọn cả Jetavana, đã đi đến đức Thế Tôn, sau khi đi đến, đã đảnh lễ đức Thế Tôn rồi đứng ở một bên. Khi đã đứng một bên, vị trời ấy đã bạch với đức Thế Tôn bằng lời kệ rằng:

13. “Bahū devā manussā ca, maṅgalāni acintayuṃ. / ākaṅkhamānā sotthānaṃ, brūhi maṅgala–m–uttamaṃ”./

13. Trong khi mong mỏi về điều phước lành, nhiều vị trời và loài người đã suy nghĩ về các hạnh phúc. Cầu xin Ngài hãy giảng về hạnh phúc tối thượng.

14. “A–sevanā ca bālānaṃ, paṇḍitānañ–ca sevanā; / pūjā ca pūjaneyyānaṃ, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

14. Sự không thân cận đối với những kẻ ngu 1, thân cận đối với những người hiền trí 2, sự cúng dường đến những bậc đáng được cúng dường 3; điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

15. “Patirūpa–desa–vāso ca, pubbe ca kata–puññatā, / atta–sammā–paṇidhi ca, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

15. Sự cư ngụ ở trú xứ thích hợp 4, tư cách có phước thiện đã được làm trước đây 5, sự quyết định đúng đắn cho bản thân 6; điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

16. “Bāhu–saccañ–ca sippañ–ca, vinayo ca su–sikkhito; / su–bhāsitā ca yā vācā, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

16. Sự học rộng (đa văn) 7, sự thành thạo nghề nghiệp 8, giới luật được khéo nghiêm trì 9, và lời nói tốt đẹp 10; điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

17. “Mātā–pitu upaṭṭhānaṃ, putta–dārassa saṅgaho; / anā’kulā ca kammantā, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

17. Sự phụng dưỡng cha 11 mẹ 12, sự đối xử thân thiện vợ con13, những nghề không lẫn lộn (nghiệp dữ) 14, điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

18. “Dānañ–ca dhamma–cariyā ca, ñātakānañ–ca saṅgaho; / a–n–avajjāni kammāni, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

18. Sự bố thí 15, nết hạnh đúng pháp (hành theo pháp) 16, sự đối xử tử tế với hàng quyến thuộc 17, các hành động (thân, khẩu, ý) không lỗi lầm 18, điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

19. “Āratī viratī pāpā, majja–pānā ca saṃyamo; / a–ppamādo ca dhammesu, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

19. Sự kiêng cữ và tránh xa các điều ác 19, việc chế ngự uống các chất say 20, không biếng nhác trong các pháp 21; điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

20. “Gāravo ca nivāto ca, santuṭṭhi ca kata–ññutā; / kālena dhamma–ssavaṇaṃ, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

20. Sự cung kính 22, nết hạnh khiêm tốn 23, sự tri túc 24, lòng biết ơn 25, tùy thời lắng nghe giáo Pháp 26; điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

21. “Khantī ca sovacassatā, samaṇānañ–ca dassanaṃ; / kālena dhamma–sākacchā, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

21. Sự nhẫn nại 27, việc dễ dạy 28, sự thấy các bậc Sa–môn 29, tùy thời đàm luận giáo Pháp 30, điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

22. “Tapo ca brahma–cariyañ–ca, ariya–saccāna dassanaṃ; / nibbāna–sacchikiriyā ca, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

22. Sự thiêu đốt (ác pháp) 31, thực hành phạm hạnh 32, sự thấy các Thánh Đế (Tứ Diệu Đế) 33, và chứng ngộ Niết Bàn 34, điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

23. “Phuṭṭhassa loka–dhammehi, cittaṃ yassa na kampati; / a–sokaṃ virajaṃ khemaṃ, etaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

23. Tâm của người nào không dao động khi xúc chạm với các pháp thế gian 35, không sầu khổ 36, không bợn nhơ 37, sự vắng lặng 38, điều ấy là hạnh phúc tối thượng.

24. “Etādisāni katvāna, sabba’ttha–ma–parājitā; / sabba’ttha sotthiṃ gacchanti, taṃ tesaṃ maṅgala–m–uttamaṃ”./

24. Sau khi đã thực hành các điều như thế, (là) người chiến thắng ở tất cả các nơi, và đạt đến an vui ở mọi nơi. Điều đó là hạnh phúc tối thượng cho những người ấy.

Maṅgala–suttaṁ Niṭṭhitaṁ.

❷ RATANA SUTTA – KINH CHÂU BÁU

––––––––––––––––––––––––––––––

25. Paṇidhānato paṭṭhāya Tathā–gatassa dasa pāramiyo / dasa upa–pāramiyo dasa paramattha–pāramiyo’ti / / sama–ttiṃsa pāramiyo, pañca mahā–pariccāge, / loka’ttha–cariyaṃ ñāta’ttha–cariyaṃ Buddha’ttha–cariyan’ti / tisso cariyāyo, pacchima–bhave gabbha–vokkantiṃ, / jātiṃ, abhi–nikkamanaṃ, padhāna–cariyaṃ, Bodhi–pallaṅke / Māra–vijayaṃ, sabbañ–ñutañ–ñāṇa–ppaṭivedhaṃ, / Dhamma–cakka–ppavattanaṃ, nava loku’ttara–dhammeti/ sabbe’pi’me Buddha–guṇe āvajjitvā / Vesāliyā tīsu pākāra’ntaresu / ti–yāma–rattiṃ parittaṃ karonto / Āyasmā Ānanda–tthero viya / kāruñña–cittaṃ upaṭṭhapetvā. /

25. Sau khi phát sanh tâm bi mẫn như Ngài Ānanda đang hộ trì Kinh Paritta trọn đêm cả ba canh, đi bộ dọc theo ba bức tường thành của thành phố Vesālī. Ngài đã quán chiếu tất cả những ân đức này của đức Phật bắt đầu từ khi phát nguyện (thành bậc Chánh Giác) của Như Lai, là thực hành ba mươi pháp pāramī (Ba–la–mật), bao gồm mười pháp pāramī, mười pháp trung pāramī, mười pháp thượng pāramī, năm pháp đại thí; ba pháp hành là thực hành lợi ích cho thế gian, thực hành lợi ích cho người thân (của Ngài) và thực hành lợi ích cho sự giác ngộ, sự giáng sanh vào bào thai trong kiếp chót, việc đản sanh, sự xuất gia, việc tu khổ hạnh; sự chiến thắng Ma Vương khi ngồi trên bồ đoàn dưới cội cây Bồ Đề, sự thấu triệt trí tuệ của một bậc Toàn Tri; sự vận chuyển Pháp Luân; chín pháp xuất thế gian (siêu thế).

26. Koṭī–sata–sahassesu, cakkavāḷesu devatā,/ yassā’ṇaṃ paṭiggaṇhanti, yañ–ca Vesāliyā pure. /

27. Rogā’manussa–dubbhikkha– sambhūtaṃ ti–vidhaṃ bhayaṃ,/ khippa–m–antara–dhāpesi, parittaṃ taṃ bhaṇāma he. /

26–27. Xin các bậc hiền trí! Bây giờ chúng tôi tụng kinh Paritta này mà nhiều vị chư thiên trong hàng tỷ vũ trụ (ta bà thế giới) đã chấp nhận (những điều đó), khiến cho nhanh chóng biến mất ba tai nạn do bệnh tật, phi nhân và nạn đói khát đang phát sanh ở thành phố Vesālī này.

28. Yānī’dha bhūtāni sam–āgatāni, bhummāni vā yāni va antalikkhe, / sabbe’va bhūtā su–manā bhavantu, atho’pi sakkacca suṇantu bhāsitaṃ. /

28. Bất cứ hạng chư thiên nào cùng nhau tụ hội nơi đây, ở đất liền hay ở trên hư không; mong cho tất cả chư thiên đó được hoan hỷ; và cũng nên chăm chú lắng nghe lời tụng đọc (Phật ngôn) này.

29. Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe, mettaṃ karotha mānusiyā pajāya, / divā ca ratto ca haranti ye baliṃ, tasmā hi ne rakkhatha a–ppamattā.

29. Vì vậy, xin tất cả các hạng chư thiên hãy lắng nghe! Hãy có lòng bi mẫn đối với chúng sanh là loài người! Họ mang lại cúng dường cả ngày lẫn đêm cho các vị (chư thiên). Do vậy, hãy hộ trì họ một cách tinh cần.

30. Yaṃ–kiñci vittaṃ idha vā huraṃ vā, saggesu vā yaṃ ratanaṃ paṇītaṃ, / na no samaṃ atthi Tathā–gatena. Idam’pi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ. / Etena saccena suvatthi hotu. /

30. Cho dù kho báu nào ở thế giới này hay ở thế giới khác; hay báu vật cao quý nào ở trên cõi trời. Báu vật đó không sánh bằng với Như Lai. Thật vậy, chư Phật là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

31. Khayaṃ vi–rāgaṃ a–mataṃ paṇītaṃ, ya–d–ajjhagā sakya–munī samāhito, / na tena dhammena samatthi kiñci. Idam’pi Dhamme ratanaṃ paṇītaṃ. / Etena saccena suvatthi hotu. /

31. Sự kiên định của đức Sakyamunī đã thông suốt pháp thù diệu, bất tử, dứt khỏi tình dục, không còn phiền não. Do vậy, không có gì sánh bằng Pháp Bảo. Thật vậy, Pháp Bảo này là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

32. Yaṃ Buddha–seṭṭho parivaṇṇayī suciṃ, samādhi–m–ānantarika’ñña–m–āhu, / samādhinā tena samo na vijjati. Idam’pi Dhamme ratanaṃ paṇītaṃ. / Etena saccena suvatthi hotu. /

32. Đức Phật cao quý đã tán dương thiền định tinh khiết. Chư Phật đã nói là vô gián định (cho quả ngay lập tức). Không có gì sánh bằng thiền định ấy. Thật vậy, Pháp Bảo này là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

33. Ye puggalā aṭṭha sataṃ pasatthā, cattāri etāni yugāni honti, / te dakkhiṇeyyā su–gatassa sāvakā, etesu dinnāni maha–pphalāni. / Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. /

33. Có tám bậc (hay 108 bậc) thánh nhân được người đức hạnh ca ngợi, có bốn đôi này. Các vị đệ tử ấy của đức Thiện Thệ đáng được cúng dường. Những sự bố thí đến những vị đó là có quả lớn. Thật vậy, Tăng Bảo này là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

34. Ye su–ppayuttā manasā daḷhena, ni–kkāmino gotama–sāsanamhi. / Te patti–pattā a–mataṃ vigayha, laddhā mudhā ni–bbutiṃ bhuñja–mānā. / Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. /

34. Với tâm trí kiên định hợp lý, các ngài có sự ứng dụng hoàn hảo xuyên qua giáo Pháp của đức Cồ Đàm. Các ngài đã thoát khỏi những dục vọng. Các ngài đã đạt được mục đích, đã thể nhập bất tử. Các ngài đã đạt được sự cao tột, đang tận hưởng sự giải thoát. Thật vậy, Tăng Bảo này là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

35. Yathi’ndakhīlo pathavi–ssito siyā, catubbhi vātehi a–sam–pakampiyo. / Thatū’pamaṃ sa–ppurisaṃ vadāmi, yo ariya–saccāni avecca passati. / Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. /

35. Ví như trụ đá vững chắc được chôn trong lòng đất, không thể bị lay chuyển bởi những cơn gió từ tứ phương. Cũng ví như vậy, con đảnh lễ bậc hiền nhân, người mà thấy rõ Thánh Đế (Tứ Diệu Đế). Thật vậy, Tăng Bảo này là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

36. Ye ariya–saccāni vi–bhāvayanti, gambhīra–paññena su–desitāni. / Kiñcā’pi te honti bhusaṃ pamattā, na te bhavaṃ aṭṭhama–m–ādiyanti. / Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu./

36. Những vị nào phát triển rõ ràng những Thánh Đế (Tứ Diệu Đế), đã được khéo thuyết giảng bằng trí tuệ sâu lắng, mặc dù các ngài thường dễ duôi nhưng các ngài cũng không nhận lãnh kiếp sống thứ tám. Thật vậy, Tăng Bảo này là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

37. Sahāvassa (saha + eva + assa) dassana–sampadāya, taya’ssu dhammā jahitā bhavanti, / sa–kkāya–diṭṭhī vicikicchi’tañ–ca, sīla–bbataṃ vā’pi ya–d–atthi kiñci. /

37. Với vị đầy đủ tri kiến (sơ đạo) chắc chắn, ba pháp đã được diệt trừ là thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ. Thậm chí vị này cũng diệt trừ những phiền não khác.

38. Catūha’pāyehi ca vi–ppamutto, cha–ccā’bhiṭhānāni a–bhabba kātuṃ. / Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. /

38. Và vị ấy đã hoàn toàn thoát khỏi bốn đường ác đạo, không có thể phạm sáu ác hành. Thật vậy, Tăng Bảo này là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

39. Kiñcā’pi so kamma karoti pāpakaṃ, kāyena vācā uda cetasā vā, / a–bhabba so tassa paṭicchadāya, a–bhabba–tā diṭṭha–padassa vuttā. / Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. /

39. Mặc dù vị ấy làm việc ác nào bằng thân, bằng khẩu, hay bằng ý. Việc làm của vị ấy không thể che dấu. Những việc (do thân, khẩu và ý) đã được nói lên là không thể che dấu đối với người thấy Niết Bàn. Thật vậy, Tăng Bảo này là châu báu thù diệu. Do sự chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

40. Vana–ppagumbe yatha phussita’gge, gimhāna–māse paṭhamasmiṃ gimhe. / Thatū’pamaṃ dhamma–varaṃ adesayi, ni–bbāna–gāmiṃ paramaṃ hitāya. / Idam’pi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. /

40. Cũng như những bụi cây trong rừng đâm chồi trên những ngọn cây trong cái nóng của tháng đầu mùa hạ. Cũng như thế ấy, giáo Pháp cao quý đã được chỉ ra, dẫn đến Niết Bàn là hạnh phúc tối thượng. Thật vậy, Phật Bảo này là châu báu thù diệu. Do sự chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

41. Varo vara’ññū vara–do varā–haro, a–n–uttaro dhamma–varaṃ adesayi. / Idam’pi Buddhe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. /

41. Bậc Thù Thắng (đức Phật), bậc Liễu Tri Thù Thắng, bậc Thí Thù Thắng, bậc Mang Lại Thù Thắng, Bậc Vô Thượng đã giảng giải Pháp thù thắng. Thật vậy, Phật Bảo này là châu báu thù diệu. Do sự chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

42. Khīṇaṃ purāṇaṃ nava natthi–sambhavaṃ, vi–ratta–cittā’yatike bhavasmiṃ. / Te khīṇa–bījā a–virūḷhi–chandā, nibbanti dhīrā yathā’yaṃ padīpo. / Idam’pi Saṅghe ratanaṃ paṇītaṃ, etena saccena suvatthi hotu. /

42. Quá khứ (nghiệp cũ) đã chấm dứt, đời sống mới (tương lai) là không có, tâm đã lìa khỏi sự dính mắc kiếp sống (này). Các vị ấy có hạt giống đã hủy hoại, sự mong muốn (tái sanh) không tăng trưởng. Các bậc trí tuệ (ấy) giải thoát như ngọn đèn đã tắt. Thật vậy, Tăng Bảo này là châu báu thù diệu; do lời chân thật này, mong cho được thạnh lợi.

43. Yānī’dha bhūtāni samā–gatāni, bhummāni vā yāniva antalikkhe. / Tathā–gataṃ deva–manussa–pūjitaṃ, Buddhaṃ namassāma suvatthi hotu. /

43. Bất cứ hạng chư thiên nào đã tụ hội nơi đây, ở trên địa cầu hay hư không. Tất cả chúng ta hãy đảnh lễ bậc Giác Ngộ, Như Lai đã được cung kính bởi chư thiên và loài người. Mong cho được thạnh lợi.

44. Yānī’dha bhūtāni samā–gatāni, bhummāni vā yāniva antalikkhe. / Tathā–gataṃ deva–manussa–pūjitaṃ, dhammaṃ namassāma suvatthi hotu./

44. Bất cứ hạng chư thiên nào đã tụ hội nơi đây, ở trên địa cầu hay hư không. Tất cả chúng con hãy đảnh lễ giáo Pháp Như Lai đã được cung kính bởi chư thiên và loài người. Mong cho được thạnh lợi.

45. Yānī’dha bhūtani samā–gatāni, bhummāni vā yāni va antalikkhe, / Tatha–gataṁ deva–manussa–pūjitaṁ, Saṁghaṁ namassāma suvatthi hotu. /

45. Bất cứ hạng chư thiên nào đã tụ hội nơi đây, ở trên địa cầu hay hư không. Tất cả chúng ta hãy đảnh lễ Tăng đoàn Như Lai đã được cung kính bởi chư thiên và loài người. Mong cho được thạnh lợi.

Ratana–suttaṁ Niṭṭhitaṁ

❸ METTA SUTTA – KINH TÂM TỪ

––––––––––––––––––––––––––––––

46. Yassā’nubhāvato yakkhā, ne’va dassenti bhīsanaṃ; / yamhi cevā’nuyuñjanto, rattin–diva–m–atandito. /

47. Sukhaṃ supati sutto ca, pāpaṃ kiñci na passati; / Evam–ādi–guṇū’petaṃ, parittaṃ taṃ bhaṇāma he. /

46–47. Do nhờ oai lực của Kinh này, (mà) những hạng Dạ Xoa không dám hiện hình đáng sợ. Thật vậy, đối với người nào nỗ lực liên tục, không biếng nhác (tụng đọc và thực hành) ngày và đêm.

Người này ngủ một cách an lạc, và người này không thấy ác mộng. Xin các bậc hiền trí! Chúng tôi hãy tụng kinh Paritta này có những ân đức như vầy.

48. Karaṇīya–m–attha–kusalena, yanta santaṃ padaṃ abhisamecca; / sakko ujū ca suhujū ca, suvaco cassa mudu a–n–atimānī. /

48. Sau khi đã thấu hiểu căn bản của sự vắng lặng (Niết Bàn), bằng sự thiện xảo về lợi ích cần được làm. Là người có khả năng chất phát và khéo chánh trực, dễ dạy, nhu thuận, và không kiêu mạng.

49. Santussako ca su–bharo ca, appa–kicco ca sallahuka–vutti; / santi’ndriyo ca nipako ca, a–ppagabbho kulesu a–n–anugiddho. /

49. Là người có sự tri túc, thanh đạm, không có rộn ràng, có ít việc, là người có căn thanh tịnh, tinh tế, không có sự kiêu căng, và không có sự quyến luyến gia đình (Phật tử).

50. Na ca khudda–m–ācare kiñci, yena viññū pare upavadeyyuṃ; / sukhino–va khemino hontu, sabba–sattā bhavantu sukhi–t–attā. /

50. Vị ấy không làm những việc (ác) gì dù nhỏ mà những bậc trí có thể khiển trách. Mong cho chúng sanh được sự an vui và an toàn. Mong tất cả chúng sanh được hạnh phúc.

51. Ye keci pāṇa–bhūta’tthi, tasā vā thāvarā va–n–avasesā; / dīghā vā ye–va mahantā, majjhimā rassakā aṇuka–thūlā./

52. Diṭṭhā vā ye–va a–diṭṭhā, ye va dūre vasanti a–vidūre; / bhūtā va sambhave’sī va, sabba–sattā bhavantu sukhitattā. /

51–52. Bất cứ chúng sanh nào yếu hay mạnh, hay không ngoại trừ ai, dài hoặc ngắn hay trung bình, lớn hay nhỏ, ốm hay mập.

Chúng sanh nào có thể thấy hoặc không thấy, những chúng sanh nào ở xa hay gần, đã sanh hoặc chưa sanh (trong thai bào); mong cho tất cả chúng sanh được hạnh phúc.

53. Na paro paraṃ nikubbetha, nā’timaññetha katthaci na kañci; / byārosanā paṭigha–saññā, nā’ññamaññassa dukkha–m–iccheyya. /

53. Đừng lừa đảo người khác, hay xem thường bất cứ người nào trong nơi đâu. Chớ nên mong muốn làm khổ người này hay người khác (lẫn nhau) với tưởng sân hận thù hằn.

54. Mātā yathā niyaṃ putta–m–āyusā eka–putta–m–anurakkhe; / evampi sabba–bhūtesu, mānasaṃ bhāvaye a–parimāṇaṃ. /

54. Ví như người mẹ bảo vệ đứa con một của mình (cho dù phải nguy hiểm đến tánh mạng). Cũng vậy, hãy nên phát triển tâm tư vô lượng đến tất cả chúng sanh.

55. Mettañ–ca sabba–lokasmi, mānasaṃ bhāvaye a–parimāṇaṃ; / uddhaṃ adho ca tiriyañca, a–sambādhaṃ a–vera–m–a–sapattaṃ. /

55. Hãy nên phát triển tâm từ vô lượng đến tất cả thế gian, bên dưới và bên trên, bên này sang bên kia (theo chiều ngang), không bị ngăn che. Thân thiện, không có thù oán.

56. Tiṭṭhaṃ caraṃ nisinno va, sayāno yāvata’ssa vita–middho. / Etaṃ satiṃ adhi–ṭṭheyya, brahma–m–etaṃ vihāra–midha–m–āhu. /

56. Khi đang đứng, đang đi, đang ngồi hay đang nằm, cùng với tâm tư không mê mờ. Người này nên phát triển niệm tâm từ ấy. Ở đây, chư Phật gọi là Phạm trú.

57. Diṭṭhiñ–ca an–upaggamma, sīlavā dassanena sampanno. / Kāmesu vineyya gedhaṃ, na hi jātu–ggabbha–seyya punare’ti. /

57. Là người không có chấp thủ tà kiến, có giới hạnh, đã được thành tựu tri kiến. Người nên dứt bỏ sự tham luyến trong các dục. Thật vậy, người này chắc chắn không còn tái sanh vào bào thai nữa.

Metta–suttaṁ Nitthitaṁ

Bài viết liên quan

thực hành bát quan trai giới chắc hẳn là có quả báu lớn, Web Link

Ngày phát lộ thanh tịnh: bố-tát uposatha – bát quan trai giới, Web Link

Cách thức thọ trì bát quan trai giới (không thọ trì giới cấm, không có đường tái sinh thiện thú, không có đường giải thoát), Web Link

Khóa lễ thọ trì tam quy và bát quan trai giới trực tuyến online hai kỳ mỗi tháng, Web Link

Video thọ trì tam quy y và bát quan trai giới nhân ngày lễ bố tát uposatha – sumangala bhikkhu viên phúc , Web Link

Thọ trì tam qui và bát quan trai giới, ân đức tam bảo – vayama bhante mbmc malaisia, Youtube

Các chi phần của ngũ giới & bát quan trai giới, Web, FB

Làm gì trong ngày trước ngày lễ Bố tát Uposatha?, Web, FB

Ðừng bao giờ xem một việc thiện là việc nhỏ, và bảo rằng đó là việc mọn., Web Link

  • Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
  • Tôi nguyện, Web, FB
  • Tại sao Myanmar, Web, FB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB

Bài viết trên Facebook, 16/7/2023