Thiền giả xả bỏ, quy phục thân mạng tới vị thầy thiện trí thúc như thế nào

THIỀN GIẢ XẢ BỎ, QUY PHỤC THÂN MẠNG TỚI VỊ THẦY THIỆN TRÍ THÚC NHƯ THẾ NÀO❓

––––––––––––––––––––––––––––––

Thanh Tịnh Ðạo – Buddhaghosa (Phật Âm)

Phần thứ hai: Ðịnh – Chương III

Mô Tả Ðịnh – Nhận Một Ðề Mục Quán

––––––––––––––––––––––––––––––

… Phương pháp tu tập loại định liên hệ tám thánh đạo (xuất thế) bao gồm trong phương pháp tu tập tuệ (Ch. XXII), VÌ TRONG KHI TU TUỆ MINH SÁT, ĐỊNH XUẤT THẾ CŨNG ĐƯỢC PHÁT TRIỂN. Bởi thế ở đây ta không bàn đến sự tu tập định xuất thế.

28. Nhưng định thế gian phải được tu tập bởi một người đã đứng vững trên đất giới có giới hoàn toàn thanh tịnh như đã mô tả.

Vị ấy phải

đoạn trừ mười chướng ngại,

GẦN GŨI THIỆN TRI THỨC,

người cho một đề tài thiền quán,

phải nắm lấy một trong bốn mươi đề tài,

cái nào thích hợp với cá tính hành giả.

Sau đó phải tránh ngôi chùa không thuận lợi,

đến sống tại một thuận lợi cho sự tập định.

Rồi phải trừ khử các chướng ngại phụ thuộc và

không bỏ qua bất cứ một chỉ dẫn nào.

–––––––––––––––––––––––––

… 61. Thiện tri thức là người có những đức tính:

Ðược kính trọng yêu mến

Biết nói và chịu nghe

Lời thốt ra sâu sắc

Không vô cớ buộc ràng (A. iv, 32)

Người ấy hoàn toàn quan tâm đến sự an lạc và thích tiến bộ.

62. Do câu: “Này Ananda, nhờ Ta làm thiện tri thức cho chúng, mà những hữu tình bị sinh tử được thoát ly sinh tử” (S. i, 88), ta thấy chỉ có Ðức Phật, đấng Toàn Giác, mới có được tất cả điều kiện của một bậc thiện tri thức.

Bởi thế khi Ngài còn ở đời, chỉ có một đề mục thiền được nhận trước mặt Thế Tôn, mới là một đề mục được nhận một cách tốt đẹp.

Sau khi Ngài nhập niết bàn có thể nhận từ một vị Thánh đệ tử còn sống.

Khi những vị này cũng không còn, hãy nhận từ một vị đã sạch lậu hoặc, một vị nhờ đề mục đặc biệt ấy đã chứng bốn thiền, năm thiền đã đạt đến lậu tận bằng cách tăng trưởng trí huệ có thiền làm nhân.

63. Nhưng làm thế nào một vị đã đoạn tận lậu hoặc tuyên bố: “Ta là người đã đoạn tận lậu hoặc?” Tại sao không? Vị ấy tuyên bố như vậy khi biết chắc rằng những chỉ giáo của ông sẽ được thi hành. Như trưởng lão Assagutta đã trải chiếu ngồi kiết già giữa hư không để giảng một đề tài thiền quán cho một tỷ kheo khởi sự tu tập đề tài ấy, vì biết vị này sẽ làm theo lời dạy của ông.

64. Vậy, nếu có một vị đã đoạn tận lậu hoặc thì tốt. Nếu không, thì hãy nhận đề tài nơi

một vị Bất hoàn,

một vị Nhất lai,

một vị Dự lưu,

một người thường nhưng đã đắc thiền,

một người thông ba tạng,

một người thông hai tạng,

một người thông một tạng,

một người thông năm bộ Nikàya,

một người thông Nikàya cùng với sớ giải, hoặc

một người cẩn trọng.

Vì một bậc thầy cẩn trọng thì

biết rõ kinh điển,

giữ gìn gia tài Phật Pháp,

bảo trì truyền thống,

vị ấy sẽ theo quan điểm của bậc Thầy hơn là theo ý riêng.

Do vậy, cổ đức đã nói lên ba lần: “Một người cẩn trọng sẽ giữ gìn kho báu”.

65. Những người nói trên, khởi từ vị đã đoạn tân lậu hoặc, chỉ nói đến con đường mà chính họ đã đạt đến.

Nhưng với một vị đa văn, thì những chỉ dạy và giải đáp được thanh lọc nhờ đã đến gần nhiều bậc Thầy, và bởi thế, vị nầy sẽ giải thích một đề tài thiền quán bằng cách nêu rõ một lối đi rộng, như một thớt voi lớn đi qua một dãi rừng.

Vị ấy sẽ chọn lọc những bản kinh, những lý lẽ chỗ này chỗ khác, kèm thêm giải thích cái gì nên theo cái gì không.

Do vậy, một đề tài thiền quán cần được chọn bằng cách đến gần một Thiện Tri Thức như thế, người cho một đề tài, và khi đến gần, hãy làm những bổn phận của một môn sinh.

66. Nếu vị ấy ở cùng một tu viện, thì tốt. Nếu không, hành giả nên đi đến chỗ vị ấy cư trú.

Khi một tỷ kheo đi đến thiện tri thức, thì không nên đi với chân thoa dầu, mang giầy, đi dù, có đệ tử đoanh vây đem theo tư cụ.

Vị ấy nên du hành như một tỷ kheo du phương, tự mạng y bát, làm tất cả bổn phận trong mỗi ngôi chùa trên đường đi, mạng theo rất ít và sống với hạnh viễn ly cao độ.

Khi vào đến tự viện có bậc thiện tri thức ấy, vị tỷ kheo không được mong mỏi cái gì, phải tự túc đến cả một cái tăm xỉa răng.

Vị ấy cũng không nên vào một phòng, nhà nào trong tự viện, nghĩ, ta sẽ ở đấy nghỉ ngơi, tắm rửa, bôi dầu vào thân, rồi hãy đi đến bậc thầy.

67. Tại sao thế?

Vì nếu ở đây có các tỷ kheo không ưa bậc thầy, họ sẽ hỏi mục đích viếng thăm của khách, rồi chê bai bằng cách nói: “Nếu bạn tới ông đó thì bạn rồi đời”. Những vị này có thể làm cho người mới đến hối hận đã đến, và bèn quay trở về.

Do đó, chỉ nên hỏi trú xứ rồi đến thẳng bậc thầy.

68. Nếu bậc thầy là hạ toạ tỷ kheo, vị thâm học [nhiều hạ lạp hơn] cũng không được để cho ông ta đỡ lấy y bát của mình v.v…

Nếu là một thượng toạ tỷ kheo, thì nên thí lễ rồi đứng. Khi thầy bảo, “Hiền giả, hãy đặt y bát xuống” mới được đặt. Khi thầy mời uống nước, nếu khát nên uống. Khi thầy bảo rữa chân, không nên rửa ngay, vì nếu nước ấy do chính thầy mang tới thì không phải phép. Nhưng nếu thầy bảo, “Hiền giả, nước ấy không phải tôi mang đến. Hãy rửa đi” thì được rửa, bằng cách ngồi tại một chỗ khuất mắt thầy, hoặc ở ngoài chỗ trống phía một bên nhà.

69. Nếu thầy mang đến một ống dầu, tỷ kheo hãy đứng dậy cẩn thận đở lấy với cả hai tay. Nếu tỷ kheo không nhận, vị kia có thể ngạc nhiên tự nhủ, tỷ kheo này chưa gì đã ghét xài chung như vậy sao? Nhưng khi nhận xong, tỷ kheo không nên thoa vào chân ngay. Vì nếu đó là dầu để thoa chân thầy, thì không được dùng mà thoa chân mình. Bởi thế, tỷ kheo nên thoa lên đầu, vai…, nhưng nếu thầy bảo “Hiền giả, dầu này để thoa chân tất cả mọi người, hãy thoa chân”, thì vị ấy nên thoa một ít lên đầu, rồi thoa chân. Xong đâu đấy, đưa lại cho thầy mà thưa: “Bạch đại đức, xin gởi lại chai dầu”.

70. Vị tỷ kheo không nên nói: “Bạch đại đức, giảng cho tôi một đề tài thiền quán” ngay hôm mới đến.

Nhưng khởi từ hôm sau, nên xin làm phận sự của một người hầu. Nếu thầy không cho, thì nên làm phận sự ấy khi có dịp. Khi làm, thì phải mang cho thầy ba cái tăm xỉa răng cỡ nhỏ, vừa và lớn, hai loại nước súc miệng cũng như nước tắm, là nóng, lạnh. Trong ba ngày đầu, để ý thầy dùng thứ nào trong các thứ ấy thì sau đó hãy mang đến thứ đó. Nếu thầy dùng thứ nào cũng được, thì sau gặp thứ gì đem thứ ấy.

71. Tại sao phải nói nhiều?

Vì tất cả phải được thì hành như lời Thế Tôn dạy trong các kiền độ (khandhakas) xem như những phận sự của đệ tử:

“Này các tỷ kheo; một đệ tử cần phải thi hành những bổn phận đối với thầy cho đúng cách. Ở đây, sự thi hành bổn phận đúng cách là như sau. Ðệ tử nên dậy sớm, bỏ dép sửa y, đem tăm và nước súc miệng, trải toạ cụ cho thầy. Nếu có cháo, hãy rửa dĩa và mang cháo”. (Vin. i, 61)

72. Ðệ tử nên đến vấn an thầy vào mỗi chiều, nếu thầy bảo lui ra thì hãy lui. Nếu thầy hỏi đến làm gì, nên nói lý do. Nếu thầy không hỏi, mà để cho làm các bổn phận, thì sau 10 ngày hoặc nữa tháng, nên tìm một dịp ở nán lại sau khi thầy bảo lui, và trình bày lý do mình đến. Hoặc đến thầy vào một một lúc bất thường, chờ khi thầy hỏi đến làm gì, hãy trình bày lý do.

73. Nếu thầy nói mai trở lại, hãy y lời. Nhưng nếu vào đúng lúc ấy mà bị đau bụng hay một thứ bệnh gì khác, thì nên thưa thầy rõ và đề nghị một giờ khác thích hợp cho mình.

Bởi vì nếu một đề tài thiền quán được giải thích vào lúc bất tiện, thì ta không thể chú tâm nghe kỹ. Trên đây là giải thích câu “đến gần thiện tri thức, người cho một đề tài thiền quán”.

–––––––––––––––––––––––––

… 123. Bây giờ, câu “Và vị ấy nên hiểu” được giải thích như sau. Sau khi đến gần thiện tri thứ thuộc loại đã nói phần giải thích câu “rồi đến gần thiện tri thức, người cho một đề tài thiền quán” (đ. 28) và thiền giả cần phải hầu hạ đấng Thế Tôn, đấng Giác ngộ, hay một bậc thầy, và nên xin một đề mục quán tưởng với một tâm ý chân thành, quyết định.

124. Vị ấy nên hầu hạ đức Thế Tôn, Ðấng Giác ngộ với cách như sau:

“Bạch đức Thế Tôn, con xin xả bỏ thân mạng nầy của con để hầu hạ Ngài.”

Bởi vì nếu không quy phục hết cả thân mạng của mình như thế, thì khi sống ở một nơi xa xôi hẻo lánh, vị ấy không thể kiên cố khi gặp một vật đáng sợ xuất hiện và vị ấy có thể trở lại một trú xứ ở làng mạc, giao thiệp với thế tục, tầm cầu bất đáng và đi đến tàn mạt.

Nhưng khi hành giả đã quy phục toàn thể tánh mạng như vậy thì không còn nỗi sợ hãi nào khởi lên trong vị ấy, nếu một đối tượng khủng khiếp xuất hiện.

Quả vậy, chi có niềm hoan lạc khởi lên nơi hành giả khi nghĩ rằng: “Há ta đã không quy phục toàn thể tánh mạng nơi đức Thế tôn hay sao?”

125. Giả sử có một người có tấm vải tốt bằng lụa Kàsi, nó sẽ buồn sầu nếu tấm vải bị chuột hay gián gặm.

Nhưng nếu nó đem cúng dường cho một tỷ kheo đang cần, nó sẽ cảm thấy vui khi thấy vị ấy xé vải ra để vá y, Cũng vậy, trong khi quy phục tánh mạng.

126. Khi quy phục tánh mạng cho một bậc thầy, người ấy nên nói:

“Bạch đại đức, con xin quy phục tánh mạng nơi đại đức”.

Bởi vì một người chưa quy phục, thì trơ lì không chịu sưả đổi, khó dạy, không nghe lời khuyên can, đi bất cứ chỗ nào nó muốn, mà không hỏi ý vị thầy.

Do đó, vị thầy không giúp đỡ nó bằng tài thí hoặc pháp thí, không huấn luyện cho nó về thiền đạo.

Vì không tìm được hai thứ giúp đỡ này, nên nó không có chân đứng trong giáo pháp, và chẳng bao lâu nó sẽ xuống đến độ làm quấy hoặc hoàn tục.

Nhưng nếu nó đã quy phục tánh mạng, thì nó không bất động trước sự chỉ dạy, không đi chỗ nào tùy thích, trở thành dễ dạy và chỉ sống tùy thuộc vào vị thầy.

Nó được hai thứ giúp đỡ từ vị thầy, và được lớn manh, được tăng trưởng và thành tựu ở trong Giáo pháp, như những đệ tử của trưởng lão Cùla– Pindapàtika– Tissa.

127. Có ba tỷ kheo đến nơi trưởng lão,

một người nói: “Bạch đại đức, con sẳn sàng leo lên 1 lõm đá cao bằng một trăm người đứng chồng lên nhau, nếu đại đức muốn”.

Một trò khác nói: “Bạch đại đức, con sẳn sàng nghiền nát thân này trên tảng đá nếu thầy muốn”.

Người thứ ba nói: “Bạch đại đức, con sẳn sàng nhịn thở và chết nếu thầy cần”.

Trưởng lão nghĩ, “những người này chắc chắn có thể tiến bộ trong giáo pháp; và giải thích cho họ một đề mục thiền.

Theo lời dạy, cả ba đều chứng quả A–la–hán. Ðấy là lợi lạc trong sự quy phục.

Do vậy, ở trên nói: “Quy phục tánh mạng cho đức Thế Tôn”, đấng Giác ngộ hoặc một bậc thầy.

128. Với tâm ý chân thành, quyết định: (đoạn 123): tâm ý của thiền giả phải chân thành theo sáu cách khởi từ vô tham.

Vì chính một người chân thành theo sáu cách ấy, mới đạt được một trong ba loại tuệ giác như kinh nói:

“Có 6 ý hướng dẫn đến giác ngộ của bồ tát.

Với ý hướng vô tham, bồ tát thấy lỗi lầm trong tham dục.

Với ý hướng vô sân, bồ tát thấy lỗi lầm trong sân hận.

Với ý vô si, bồ tát thấy lỗi lầm trong si mê.

Với ý hướng xuất gia, bồ tát thấy lỗi lầm trong đời sống tại gia.

Với ý hướng viễn ly, bồ tát thấy lỗi lầm trong sự quần tụ đông đảo. V

ới ý hướng từ bỏ, bồ tát thấy lỗi lầm trong mọi sự tái sinh và sanh thú. “

Vì những bậc Dự lưu, Nhất lai, Bất hoàn, A–la–hán lậu tận, Ðộc giác, và những đấng toàn giác quá khứ, hiện tại hay vị lai, tất cả đều đã đạt địa vị nhờ những ý hướng này.

129. Hành giả cần nhất tâm quyết định về việc ấy.Nghĩa là, phải

quyết định đối với thiền,

tôn trọng thiền,

khuynh hướng về thiền;

quyết định đối với niết bàn,

tôn trọng niết bàn,

khuynh hướng về niết bàn.

– Hết trích dẫn –

Nguồn trích dẫn: Thanh Tịnh Ðạo – Buddhaghosa (Phật Âm) – Phần thứ hai: Ðịnh – Chương III – Mô Tả Ðịnh – Nhận Một Ðề Mục Quán

Bài viết liên quan

  • Vì sao phải xả bỏ thân mạng này?, Web Link
  • Vị thầy chân chính: một trợ duyên tối quan trọng không thể thiếu, Web, FB
  • Vị thầy hộ trì, Web, FB
  • Theo thầy, Web, FB
  • Thầy & trò, Web, FB
  • Tìm gặp thiện tri thức, Web, FB
  • Vai trò của vị thầy tâm linh, Web Link
  • Đôi lời nhắn nhủ tới những vị sắp xuất gia theo truyền thống phật giáo nguyên thủy Theravada. , Web Link
  • Vesak 2020 – cùng ôn lại con đường giác ngộ giải thoát, Web, FB
  • Danh mục các bài viết quan trọng, Web, FB
  • Tôi nguyện, Web, FB
  • Tại sao Myanmar, Web, FB
  • Mục đích sử dụng Facebook là gì, Web, FB
  • Sàng lọc thông tin như thế nào, Web, FB
  • Thế nào là tu đúng đạo Phật, Web, FB
  • Điều kiện tham dự các khóa thiền minh sát Vipassana (Tứ niệm xứ), Web, FB
  • Cái gì, như thế nào, để làm gì, Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p1/3), Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p2/3), Web, FB
  • Lưu lại để dễ tìm kiếm các bài viết quan trọng (p3/3), Web, FB

🔊🔊 Audio – Video bài giảng – Tỳ khưu Viên Phúc Sumagala – thiền viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar, Youtube, Archive

  • Yếu pháp tu tập trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, FB, Youtube
  • Thiền minh sát Vipassana – Lý thuyết & thực hành – Thiền sư Viên Phúc Sumagala (2019), FB, Youtube
  • Ehipassiko – Đến để thấy: phóng sự về khóa tu thiền minh sát Vipassana tại chùa Nam tông SG, Youtube
  • Xin hãy đừng phí phạm dù chỉ mỗi một giây – Thiền sư Viên Phúc Sumagala. Youtube
  • Giới và luật trong Phật giáo nguyên thủy Theravada, Web, FB, Youtube
  • Thọ trì tam quy và ngũ giới, Web, FB
  • 9 ân đức Phật, 6 ân đức Pháp, 9 ân đức Tăng, Web, FB
  • Sám hối – rải tâm từ – phát nguyện – hồi hướng công đức, Web, FB

Bài viết trên Facebook, 22/9/2023