Tại Sao Myanmar?
– FND: Kính thầy, con muốn biết tại sao thầy chọn Myanmar để tu hành?
– @: Tại các nước Trung Quốc, Nhật bản, Korea, Đài loan, Việt nam… chủ yếu là Phật giáo Đại Thừa (còn gọi là Phật giáo Phát triển), với những yếu tố, thành phần mang đậm ảnh hưởng truyền thống văn hóa Trung Quốc, và nền văn hóa các nước bản địa, cũng như với những sự pha trộn, tái chế, kết hợp các yếu tố từ Đạo Giáo, từ Đạo Lão, từ tập tục mê tín thần linh tổ tiên… do vậy nhiều giới luật, nhiều tập tục nghi lễ, nhiều giáo lý cùng pháp hành nguyên chất cũng như toàn bộ y phục, các oai nghi… đã bị bỏ qua hoặc sửa đổi, hoặc thêm bớt, hoặc xuyên tạc nên ngày càng khác xa Phật giáo Nguyên chất mà Đức Phật đã trao truyền nhằm mang lại lợi ích, an vui, hạnh phúc thực sự cho chư thiên và loài người.
Myanmar là đất nước mà Phật giáo Nguyên Thủy (Theravada) là Quốc giáo (cũng vậy ở Thailand, Sri Lanka, Cambodia). Tại đây Pháp học, Pháp hành và Pháp thành do Đức Phật truyền dạy được duy trì, gìn giữ, bảo tồn gần như nguyên vẹn, tinh khiết như từ thời Đức Phật còn tại thế một cách liên tục, bền bỉ. Và đặc biệt tại đây Pháp hành (bao gồm Giới luật, oai nghi, nghi lễ, thiền tập Định – Tuệ … v.v……) được coi trọng hàng đầu, và Myanmar được cho là có môi trường tốt nhất, thích hợp nhất đối với việc tu tập cho các hành giả. Phật giáo tại đây được chính phủ và gần như toàn dân ủng hộ, hỗ trợ tối đa trong mọi mặt vật chất cũng như tinh thần. Không lời lẽ nào có thể tả hết được việc truyền thống Phật giáo Nguyên Thủy đã ăn sâu vào máu thịt của mọi người dân Myanma, bất kể trẻ, già, nam, nữ, sắc tộc. Các nước Phật giáo Nguyên Thủy khác như Sri Lanka và Thailand thì Pháp học rất tuyệt vời, nhưng về pháp hành thì Myanmar được đánh giá rất cao, nhiều vị sư, Phât tử, chư Tỳ khưu các nước này cũng qua Myanmar thực hành Thiền Chỉ và Thiền Quán … … Và chắc cũng còn nhiều lý do tiềm ẩn khác nữa (như nghiệp quả, tiền kiếp……) đã dẫn dắt Thầy tới việc xuất gia để tu học, tu hành, tu thành tại đất nước tươi đẹp với những người dân Myanmar tuyệt vời này.
Thực sự là may mắn hy hữu, thực sự là phước báu lớn lao để có thể được làm người, để có thể gặp được Phật Pháp nguyên chất, để có thể có đủ cơ duyên học, hành và thành trong Chánh Pháp, để có thể có đủ thuận duyên để được tu hành tại Myanmar cùng các vị Thánh Tăng nơi này.
Nguyện cho Hồng Ân Tam Bảo luôn toả sáng hộ trì cho con trên con đường cao thượng dẫn đến giác ngộ, giải thoát khỏi mọi khổ đau, đạt được hạnh phúc thật sự, tự do thật sự.
Trong Tâm Từ,
Tỳ Khưu Viên Phúc.
– FND: Con xin cám ơn Thầy. Con cầu sẽ có dịp qua Myanmar để xin học Phât pháp. Nếu có dịp, con xin đến gặp Thầy. Xin Thầy giữ gìn sức khỏe.
❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈
Câu chuyện Myanmar: Aung San Suu Kyi & hồn của nước
“Trong đạo Phật, có bốn yếu tố để thành công, để chiến thắng. Ý muốn tốt, hành động đúng, dõng mãnh tinh tấn, trí tuệ bát nhã. Các nguyên tắc đạo đức đó là căn bản, tránh cho ta khỏi lạc đường. Với những nguyên tắc đó, ta sẽ đi đến được bất cứ nơi nào ta muốn. Chúng tôi không cần gì thêm”
Aung San Suu Kyi.
^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^
Aung San Suu Kyi & hồn của nước
^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^^
Giác Ngộ – Lời tòa soạn. Trong thời gian qua, cả thế giới dõi theo diễn biến của cuộc tổng tuyển cử ở Myanmar, với gương mặt không còn xa lạ – bà Aung San Suu Kyi, được trao giải Nobel Hòa bình (1991), một nữ Phật tử gương mẫu trong nhận thức và hành động, thể hiện qua phong trào đấu tranh bất bạo động bền bỉ và trung thực nhiều năm qua.
GN trân trọng giới thiệu lại một trong những bài viết của Giáo sư Cao Huy Thuần về tinh thần đạo Phật trong nhân vật này.
––––––––––
Dù đêm tăm tối bao nhiêu, mặt trời vẫn lại mọc. Sự thực đó, thế giới đang thấy ở Myanmar. Nhưng có một sự thực khác nữa thế giới cũng vừa thấy qua con người của bà Aung San Suu Kyi: cường bạo đàn áp bao nhiêu, sức mạnh tinh thần vẫn thắng. Bà nói như thế từ lâu, nghe khó tin. Nhưng sự thực đã là sự thực. Ai cho bà sức mạnh đó? Cái hồn của nước bà. Cái hồn ấy, ai cũng biết: đạo Phật của bà.
Tất nhiên, bà còn có niềm tin mãnh liệt về dân chủ. Nhưng đó không phải là điều tôi muốn nói ở đây. Tôi chỉ muốn tìm hiểu tại sao một nước theo Phật giáo Nguyên thủy như Myanmar, trong đó các sư sãi thường ít lo lắng đến chuyện xã hội bằng chuyện tu hành bản thân, lại diễn ra những quang cảnh tấn công chùa chiền, bắt bớ Tăng Ni, làm như thử Phật giáo ở Miến Điện đã “dấn thân” tự bao giờ trong chính trị.
Có thật thế chăng? Và nếu có liên hệ thì tôn giáo và chính trị đã liên hệ với nhau như thế nào trong lịch sử? Tôi không có tham vọng trả lời câu hỏi có tính nghiên cứu đó trong một bài báo ngắn ngủi. Tôi chỉ xin kể, và kể rất giản lược, vài chuyện có liên quan đến câu hỏi đó để điểm lại quá khứ và suy đoán tương lai.
Chuyện đầu tiên mà tôi muốn kể là từ bao giờ dân tộc Miến Điện mang cái hồn ấy. Từ xa xưa. Và bởi vì quá xa xưa nên sự thực lịch sử nhiều khi trộn lẫn với truyền thuyết. Người dân Miến Điện kể rằng Đức Phật đã đến đất của họ lần đầu bằng tóc của Ngài. Chuyện này có thật trong kinh. Sau khi Đức Phật thành đạo và đang tĩnh tọa dưới cây bồ–đề thì có hai thương nhân từ phương xa đi qua đó. Họ cung kính dâng thức ăn cho Ngài và xin quy y. Đó là hai đệ tử đầu tiên của Phật. Khi về lại xứ, họ xin Ngài vài sợi tóc để thờ. Nhà vua xây tháp để thờ tám sợi tóc. Tháp ấy bây giờ là ngôi chùa vàng danh tiếng Shwedagon ở cựu thủ đô Yangon.
Lần thứ hai, Đức Phật đến bằng chân. Một thương nhân khác, tên là Punna, đã đến tận Savatthi, nơi Đức Phật đang thuyết giảng, và được Ngài thâu nhận vào Tăng chúng. Sau một thời gian tu học, ông xin Phật cho đi giáo hóa. Phật nói: dân xứ ấy dữ lắm, ông giáo hóa bằng cách nào? Ông thưa: con sẽ không bao giờ giận dù cho họ giết con. Chuyện này cũng có thật trong kinh. Nhưng chi tiết tiếp theo thì tôi chưa thấy ở đâu.
Punna giáo hóa thành công, xây được một tu viện, và mời Phật đến thăm. Ngài đến với 500 vị Tăng. Khi trở về, Đức Phật dừng chân bên sông Nammada, gần dãy núi Saccabandha. Một vết chân của Ngài in dấu không phai gần bờ sông, một vết chân khác in dấu trên núi.
Hai vết chân bây giờ là hai thánh tích, ngày xưa được vua thờ, ngày nay là đất hành hương của dân chúng.
Đức Phật còn để lại cả hình ảnh của Ngài. Truyền thuyết ghi rằng bức tượng thờ ở chùa Mahamuni cho đến năm 1784 là do vua và dân tạc sau khi được đón rước Phật tại vương quốc Dhannavati. Tượng ấy sau đó được thỉnh về chùa Arakan ở Mandalay.
Tất cả những sự kiện, vừa lịch sử vừa truyền thuyết đó, nói lên một điều: người dân Miến Điện hãnh diện về nước của mình như là đất của Phật, Phật đã đến đó và đã để lại xá–lợi cho dân.
Hơn ở đâu hết, đất đó còn là đất Phật vì gần 90% dân số cùng thờ một đạo. Hơn ở đâu hết, người dân dù nghèo đến bao nhiêu cũng thực hành công đức như một nếp sống bình thường, cúng dường chư Tăng, tô điểm chùa chiền.
Người bên ngoài, Tây phương và cả không Tây phương, đều không hiểu tại sao dân chúng nghèo như thế mà vẫn chắt chiu dành dụm để kiếm chút vàng làm rực rỡ thêm tượng Phật. Họ không hiểu, nhưng chính điều không hiểu đó đã làm người Miến Điện thành người Miến Điện.
Hành trì công đức là lẽ sống của người dân Miến. Tạo công đức ở kiếp này làm họ vui. Càng nhiều công đức càng vui. Kiếp này họ vui, kiếp sau họ hưởng. Sống là như vậy. Không phải ăn, mặc, nhà cao cửa rộng là căn bản. Tu ấy là tu phước, nhưng cũng là tu hạnh, hạnh ấy là bố thí, là biết cho, không phải dễ đâu.
Thú thực, bản thân tôi cũng không hiểu nổi người Miến cho đến khi tôi đọc bà Aung San Suu Kyi. Bà nói: “Quan tâm đầu tiên của tôi là theo sát những nguyên tắc của Đức Phật trong mọi hành động của tôi trên đời. Như vậy là bởi vì tôi tin rằng tất cả chúng ta, như là người, đều có một bề sâu tâm linh không thể lơ đãng được”.
Phong trào dân chủ của bà, bà xem đó như là một “cách mạng tâm linh” mọc rễ từ trong những nguyên tắc Phật giáo. Và khi người ta hỏi bà “đức tính gì nằm tận trong thâm sâu của phong trào ấy”, bà nói không ngần ngại: “Sức mạnh bên trong. Chính là sự vững chãi tâm linh đến từ tin tưởng rằng cái gì ta làm là đúng, dù cho điều đó không mang đến lợi lộc cụ thể tức thì. Chính là sự kiện này: điều ta đang làm giúp ta củng cố sức mạnh tâm linh của ta. Sức mạnh này ghê gớm lắm”.
Bởi vậy, trong khi ở nơi khác, phát triển kinh tế là kinh nhật tụng, ở Miến Điện, phát triển kinh tế chỉ là phương tiện, mục đích là đời sống tâm linh của người dân. Tranh đấu cho độc lập trước đây cũng vậy. Tại sao phải độc lập? Tại vì, như một câu hát của các người làm cách mạng thời 1930, độc lập là để phục hồi lại phồn vinh của ngày xưa, “để người nghèo cũng có thể xây dựng chùa chiền”. Đó là mục đích của đời sống, đó là hạnh phúc của người dân.
Tôi nói thêm một điều nữa về đặc tính của Phật giáo Miến Điện trước khi bắt qua chuyện thứ hai: trên đất Phật ấy cũng có một tín ngưỡng lâu đời của dân gian, gọi là Nat, thờ thần, tin bùa chú, phù phép, ưa nhảy múa. Tín ngưỡng ấy hồn nhiên chung sống hòa bình với Phật giáo, nhưng Phật là Phật, thần là thần, đâu có hồn nhiên lẫn lộn được, lát nữa tôi sẽ nhắc lại vấn đề này. Bây giờ, xin bắt qua chuyện thứ hai.
Chuyện thứ hai là chuyện liên hệ giữa quyền lực và giáo hội Tăng–già. Một tác giả có uy tín đã viết thế này: “Miến Điện có lẽ là nước hạnh phúc nhất thế giới trước khi người Anh đến… không có quý tộc, không có Tăng lữ, không có Nhà Thờ, không có quân đội, không có nghèo khổ, đẳng cấp, địa chủ, ngân hàng”. Một xã hội bình đẳng, từ thiện.
Đúng hay không, tôi không dám nói, nhưng không có Nhà Thờ thì quá đúng. Không có Nhà Thờ trong cái nghĩa của Tây phương, nghĩa là một uy quyền tôn giáo duy nhất, tập trung, tập quyền, đối chọi với nhà nước, có khi ngang ngửa, có khi trội hơn.
Tôi tạm dùng chữ “Giáo hội Tăng–già” để dịch chữ Sangha, nhưng Sangha không phải là một tổ chức tập trung, tập quyền, tôn ty trật tự, đẳng cấp phân minh, dưới phục tùng trên, trên chỉ huy dưới.
“Giáo hội” ở nước ấy chưa bao giờ ra khỏi mẫu mực tương quan nguyên thủy trong lịch sử, nghĩa là tương quan giữa tín đồ và chư Tăng, trong đó tín đồ là người cúng dường và chư Tăng là người thọ lãnh. Người cúng dường cung cấp phẩm vật, người thọ lãnh cung cấp phước đức. Trong ý nghĩa đó, ông vua chỉ là người đứng đầu của một tập thể cúng dường, có trách nhiệm duy trì hòa bình, phồn vinh, để ai ai cũng có thể thực hiện công đức. Trách nhiệm đó trao cho ông một quyền: gìn giữ cho đạo Phật được “tinh khiết”. Với quyền đó, ông là trọng tài khi cần thiết để xử những tranh chấp xảy ra liên quan đến giáo lý. Với quyền đó, ông là người bảo vệ đạo Phật.
Nhưng như vậy là ông có quyền can thiệp vào nội bộ của giáo hội. Ông can thiệp thông qua một “tăng thống” mà ông bổ nhiệm. Thế nhưng giáo hội đã không phải là một khối đồng nhất thì tăng thống có thực quyền gì trên các chi, các nhánh, sinh hoạt tự trị trong các làng xã, có trường riêng, tự viện riêng, do làng xã địa phương lập nên? Rốt cuộc, dù ông vua có nắm được “giáo hội” ấy, tập thể chư Tăng vẫn sinh hoạt độc lập với đời sống riêng, và tăng thống chỉ là chiếc cầu lỏng lẻo giữa vua với một giáo hội chủ yếu là tự trị.
Để cụ thể hóa hình ảnh chiếc cầu lỏng lẻo ấy, ví dụ sau đây rất lý thú. Suốt cả thế kỷ XVIII, ông vua và tăng thống không giải quyết nổi một tranh chấp để “tinh khiết” giới luật. Đầu thế kỷ, vài vị Tăng đi khất thực, khoác y như khi đi trong chùa, nghĩa là một vai để trần. Đừng tưởng đây là chuyện chơi trong một nước Phật giáo Nguyên thủy, giữ giới luật như giữ con ngươi. Để trần một vai như vậy có đúng luật không? Hết vua này đến vua khác, vua này nói được vua kia nói không. Cả trăm năm không xử nổi một chiếc vai!
Tình trạng tự trị trong giáo hội lại càng phát triển vào những giai đoạn loạn lạc, ngay cả trước khi người Anh xâm chiếm. Phe phái xuất hiện, thiết lập kỷ luật riêng, tòa án riêng, thậm chí “tăng thống” riêng.
Vua Mindon (1853 –1878) cố tăng cường can thiệp trực tiếp vào nội tình giáo hội, nhưng người Anh đã đến, Miến Điện bị chia hai, hạ Miến Điện lọt ra khỏi chủ quyền của vua. Chính sách tôn giáo của người Anh, áp dụng trên cả nước, khi cai trị toàn thể Miến Điện, là không cần biết đến giáo hội nữa, tôn giáo với chính quyền là hai, giống như luật lệ ở mẫu quốc.
Các tôn giáo ở phương Tây tràn đến, Phật giáo không còn có ông vua nào nữa để đóng vai bảo vệ. Nhưng như thế mà hay, vì các ông sư bây giờ, sống ngoài vòng cương tỏa, đóng vai bảo vệ độc lập của nước.
Họ là những người đầu tiên thắp lên ngọn đuốc tranh đấu, những người đầu tiên liên kết với cư sĩ, với trí thức, để tạo thành mạng lưới chính trị chống đế quốc đầu tiên trong những năm 1920, 1930. Và như vậy tôi bước qua chuyện thứ ba.
Chuyện thứ ba là chuyện ông U Nu, thủ tướng đầu tiên của nước Miến Điện độc lập. Một nhân vật xuất chúng. Một lãnh tụ lỗi lạc. Một nhà chính trị được thế giới kính nể. Một con người dân chủ. Một Phật tử sùng đạo.
Tham gia tranh đấu trong mạng lưới đầu tiên của trí thức trẻ Phật giáo (YMBA), ông là lãnh tụ của đảng chính trị đầu tiên tranh đấu chống phát–xít (AFPFL) sau khi Aung San bị ám sát. Độc lập vãn hồi, ông chủ tâm phục hưng lại Phật giáo.
Một mặt, ông lồng Phật giáo vào hệ ý thức mới mang màu sắc xã hội của thời đại và gọi đó là “xã hội chủ nghĩa Phật giáo”. Trung thành với văn hóa truyền thống, chủ nghĩa xã hội của U Nu nhằm thực hiện lý tưởng cổ truyền: hạn chế tham lam của người giàu, tạo thì giờ rảnh rỗi cho người nghèo, để ai cũng có thể tích cực thực hành công đức.
Mặt khác, ông không ngại can thiệp vào nội bộ Phật giáo, thành lập các tòa án của giáo hội để chấn chỉnh kỷ luật, tổ chức lại hệ thống giáo dục mà chùa chiền đảm nhận từ xưa, thành lập viện hóa đạo, chỉnh đốn đại học Phật giáo, kiết tập đại hội Phật giáo thế giới để nâng cao vai trò của Phật giáo Miến Điện trên thế giới Phật giáo, xây dựng chùa chiền…
Ý thức rằng Phật giáo là yếu tố tinh thần duy nhất để kết hợp và hòa nhập các chủng tộc ít người trong một nước đa chủng bấp bênh hiểm họa ly khai, ông cố thiết lập một giáo hội lan tỏa ra tận các chủng tộc sát biên giới.
Tóm lại, U Nu hành động như một vị quân vương ngày xưa trong mối liên hệ giữa Phật giáo và lãnh đạo chính trị: người lãnh đạo bảo vệ Phật giáo, giáo hội ban cấp tính chính đáng cho chính quyền.
Nhưng giáo hội bây giờ đã quen chia thành khuynh hướng, phe nhóm rồi, ai cũng trọng ông U Nu như một thánh vương, nhưng người này trách ông bảo vệ Phật giáo như vậy là chưa đủ, người kia lại cho rằng ông đi như vậy là quá xa. Tình trạng trở nên trầm trọng khi ông đặt vấn đề Phật giáo là quốc giáo vào trung tâm của tranh cử năm 1960. Đảng của ông đã tách ra làm hai trên những tranh chấp khác lại càng chia rẽ hơn trên vấn đề quốc giáo này.
Kết quả là đảng của phe U Nu đại thắng trong tuyển cử vì dân chúng ủng hộ chủ trương của ông. Nhưng đại thắng này không đủ giúp ông ở lại chính quyền lâu dài. Cùng với những khó khăn về kinh tế, chống đối của các chủng tộc, hiểm họa ly khai, bất an ninh ở biên giới, những biện pháp ủng hộ Phật giáo của ông như cấm giết bò, áp dụng lịch Phật giáo, chuyển đổi án tử hình, hòa giải với phe cộng sản… tạo cơ hội cho quân đội làm đảo chánh, dựng lên một chế độ độc tài tàn bạo dài đằng đẵng từ 1962 cho đến gần đây.
Tôi bắt đầu bài viết này với tóc của Phật. Là bởi vì chế độ độc tài ấy không có cách nào để lấy lòng quần chúng hiệu nghiệm hơn là khai thác lòng sùng kính của dân đối với xá–lợi Phật. Do đó, chính sách rước răng Phật từ Trung Quốc đưa về được tổ chức cực kỳ hoành tráng trong cả nước suốt 45 ngày.
Cũng vậy, tín ngưỡng Nat với bùa chú phù phép được khích lệ tối đa, đẩy lùi Phật giáo vào thời tiền hiện đại.
Rồi cũng vậy, tướng tá xây chùa tráng lệ không thua gì những ngôi chùa tráng lệ nhất, ông này xây một chùa thì ông kia xây hai. Ta đây sùng đạo có thua ai! Chắc chắn là không thua ai về khoản tiếp thị: hình ảnh các ông tướng mộ đạo xuất hiện bên cạnh các sư sãi, chùa chiền, rước Phật, hành hương tràn đầy trên màn ảnh, báo chí.
Riêng cái khoản giáo hội Tăng–già, các ông tưởng nắm chắc trong tay, hóa ra chỉ nắm cái bóng, cái hình đã phân tán thành nhánh, thành cành, âm thầm tỏa bóng xuống khắp xã hội, vừa an ủi vừa duy trì sức mạnh.
Tương lai là chuyện thứ tư xin kể. Chắc chắn Phật giáo Myanmar sẽ không có một ông U Nu thứ hai. Nhưng Phật giáo ấy cần gì quốc vương khi đã là cái hồn của dân tộc? Vấn đề là: hình hài của dân tộc Miến đã lớn mạnh rồi, đã hấp thụ những món ăn tư tưởng mới, thở không khí của thời đại mới, tắm trong dòng sông có nhiều con nước mới đổ vào, vậy thì cái hồn ấy có hằng thường được chăng?
Tôi đang thấy hồn ấy nhập vào hình hài dân chủ nơi một người phụ nữ mảnh khảnh mà sáng ngời trí tuệ và lòng tin Phật. Tôi muốn được cùng với bạn bè Myanmar đọc vài câu đã thốt ra từ miệng người phụ nữ tự nhận mình là một Phật tử bình thường ấy.
Lạ thật, từ một người tranh đấu chống bạo lực, tôi nghe nhấn mạnh bao nhiêu lần lòng từ bi: “Phật giáo Đại thừa đặt nặng từ bi hơn Phật giáo Nguyên thủy. Tôi cảm nhận sâu xa điều đó, bởi vì chúng ta cần rất nhiều từ bi trên thế giới này. Tất nhiên, từ bi cũng là một phần của Phật giáo Nguyên thủy. Nhưng tôi muốn nhiều người hơn nữa trong dân tộc chúng tôi mang từ bi vào hành động”.
Từ bi trong chính trị? Chính vậy! “Khi Đức Phật muốn ngăn cản hai phe sắp chiến tranh, Ngài đến và đứng giữa hai bên. Hai bên có thể làm hại Ngài trước khi giết nhau. Nhưng như thế, Ngài bảo vệ cả hai. Ngài bảo vệ người khác bằng cách hy sinh thân mạng của Ngài”.
Nhưng sợ đã thành thói quen rồi trong xã hội. Làm sao bảo người ta từ bi? “Mọi chuyện đã xảy ra chỉ vì không đủ tích cực từ bi. Có một liên hệ trực tiếp giữa tình thương và sợ hãi. Kinh Từ bi dạy: “Như mẹ hiền yêu thương con một”. Đó là từ bi đích thực. Bà mẹ có thể hy sinh thân mạng vì thương con mình. Tôi nghĩ chúng ta cần thứ tình thương đó nhiều hơn nữa chung quanh chúng ta”.
Nếu những lời trên đây xuất phát từ một ông thầy tu, tôi không ngạc nhiên. Xuất phát từ một người đã từng đứng trước mũi gươm làn đạn, đó là bài học cho cả thế giới về sức mạnh của tâm linh.
Bài học mà Đức Phật đã dạy: từ bi đi đôi với vô úy. Đừng sợ! Và bởi vì không sợ cho nên không giận. Đức Phật dạy bà đừng giận. Bà không hề giận trong khi chống lại đối thủ của bà.
Mới đây thôi, trong cuộc viếng thăm của Ngoại trưởng Hillary Clinton, bà nhắc nhở lần nữa: “Khi tôi bắt đầu đi vào chính trị, tranh đấu cho dân chủ, tôi luôn luôn khởi đi với ý nghĩ rằng dân chủ là một quá trình sẽ mang lại hạnh phúc lớn hơn, hòa hợp lớn hơn, và hòa bình lớn hơn cho dân tộc tôi. Và điều đó không thể thực hiện được nếu chúng tôi bị trói chặt trong giận dữ và ý muốn trả thù. Bởi vậy tôi chưa hề bao giờ nghĩ rằng con đường phía trước là phải đi qua giận dữ và cay đắng, mà phải đi qua hiểu biết lẫn nhau, cố gắng hiểu phía kia, và đi qua khả năng thương thuyết với những người suy nghĩ hoàn toàn khác với ta, đi qua khả năng đồng ý trên bất đồng ý nếu cần thiết, để làm thế nào rút ra hòa hợp từ những cách suy nghĩ khác nhau”.
Cuối cùng bà đã chiến thắng. Nhưng ngay cả trong đêm tối mịt mù của đàn áp, bà vẫn quả quyết: “Trong đạo Phật, có bốn yếu tố để thành công, để chiến thắng. Ý muốn tốt, hành động đúng, dõng mãnh tinh tấn, trí tuệ bát–nhã. Các nguyên tắc đạo đức đó là căn bản, tránh cho ta khỏi lạc đường. Với những nguyên tắc đó, ta sẽ đi đến được bất cứ nơi nào ta muốn. Chúng tôi không cần gì thêm”.
Cao Huy Thuần
❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈
“Tôi chọn làm Tỳ Khưu”
“Tôi chọn làm Tỳ Khưu”
Ratthapala
Tôi đã thấy biết bao người giàu có
Chưa bao giờ từ bỏ tánh tham lam
Vẫn mãi mê ham của cải bạc vàng
Vẫn khao khát chạy hoài theo khoái lạ.
Tôi đã thấy biết bao là vua chúa
Chưa bao giờ an phận với giang san
Dù biên cương giáp bốn biển ngút ngàn
Vẫn muốn nữa, muốn biên thùy rộng mãi.
Người thế gian, từ bần dân, vua chúa
Trước tử thần, tâm vẫn còn tham
Tiếc công danh, tiếc sự nghiệp chưa thành
Nhưng phải bỏ, tay buông xuôi, nhắm mắt.
Quanh người chết bao người than, kẻ khóc
“Hỡi người thân! Sao vội bỏ ra đi!”
Trong áo quan, người nằm đó im lìm
Lửa thiêu đốt, xác thân thành tro bụi.
Ðem theo gì, trên mình manh vải liệm!
Còn lại chi, bia mộ khắc đôi hàng!
Dù muốn về trở lại cõi trần gian
Nhưng phải chịu tái sanh theo nghiệp định.
Kẻ còn sống đang tranh giành thừa kế
Người chết nầy chỉ có nghiệp đem theo
Khi ra đi tay trắng chẳng mang gì
Bỏ con cái, bạn đời cùng của cải.
Bách niên đại thọ bạc tiền nào mua nổi
Biển ngọc rừng vàng sao tránh khỏi già nua
Lời thánh nhân nhắc nhở lẽ Vô thường
Ngắn ngủi lắm! Kiếp người, nên ghi nhớ!
Bậc có trí quán tưởng luôn sự chết
Phút lâm chung tâm bình thản an nhiên
Kẻ phàm phu không quán tưởng thường xuyên
Nên phút cuối lâm chung đầy sợ hãi.
Trí tuệ quý hơn tiền tài của cải
Trí tuệ giúp người đạt Ðạo Quả Vô Sanh
Kẻ si mê biết bao kiếp đạt thành
Trôi nổi mãi trong luân hồi vô tận.
Từ bào thai người sanh về cõi khác
Tiếp tục hành trình đi mãi không thôi
Còn vô minh, nghiệp quả trói thân mình
Hết Sinh–Tử–Tái Sinh vòng lẫn quẫn.
Như kẻ cướp chịu luật đời phân xử
Nghiệp chúng sinh, luật nhân quả nghiêm minh
Ðể đời sau, nghiệp cũ bước theo mình
Trổ quả dử, khổ người gây nghiệp ác.
Dục lạc ngũ trần, vị ngọt ngon thơm ngát
Làm động lòng, làm xao xuyến tâm can
Thấy hiểm nguy trong vị ngọt ẩn tàng
Làm ẩn sĩ, tôi sống đời thanh thản.
Kiếp người mong manh như nhánh cây đầy trái
Gió rung cành, trái xanh, chín, rụng rơi!
Bởi hiểu thế, tôi đắp y cạo tóc
Làm Tỳ khưu vui đạo sống thanh bần.
Nguồn trích dẫn: “Tôi chọn làm Tỳ Khưu” – Dhammesaka lược dịch từ “Verses of Arahant Ratthapala”, Trung Bộ Kinh, Kinh 82 – Kinh Ratthapala
Bài viết liên quan
- Đôi Lời Nhắn Nhủ Tới Những Vị Sắp Xuất Gia Theo Truyền Thống Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada , Web, FB
- Tôi Nguyện, Web, FB
- Tại Sao Myanmar, Web, FB
- Câu Chuyện Myanmar:
- Aung San Suu Kyi & Hồn Của Nước, Web, FB
- Mục Đích Sử Dụng Facebook Là Gì? Ưu Tiên Đối Tượng Nào?, Web, FB
- Thế Nào Là Tu Đúng Đạo Phật, Web, FB
- Sàng Lọc Thông Tin Như Thế Nào? Đặt Niềm Tin Vào Đâu?, Web, FB
- Danh Mục Các Bài Viết Quan Trọng, Web, FB
Audio – Video Bài Giảng – Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala – Thiền Viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar.
- Yếu Pháp Tu Tập Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Youtube
- Thiền Minh Sát Vipassana Lý Thuyết Và Thực Hành, Youtube
- Giới Và Luật Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Youtube
- Vì Sao Xuất Gia, Web, FB
- Đức Phật Đã Có Suy Nghĩ Gì Trước Khi Xuất Gia?, Web, FB
- Ai Là Bhikkhu – Tỳ Khưu, Web, FB
- Lễ Xuất Gia Thọ Giới Tỳ Khưu
- Bài 1/4 – Thầy Tế Độ – Ācariyupajjhāya, Web, FB
- Lễ Xuất Gia Thọ Giới Tỳ Khưu (Bài 2/4 – Xét Hỏi Sa Di), Web, FB
- Bài 3/4 -Tuyên Ngôn & Thành Sự Ngôn, Web, FB
- Bài 4/4 – Bốn Pháp Nương Nhờ & Bốn Pháp Không Nên Hành, Web, FB
- Xuất Gia Gieo Duyên, Web, FB
- Đạt Tới Cái Khó Đạt Tới, Web, FB
- Mười Pháp Mà Bậc Xuất Gia Phải Quán Tưởng Thường Xuyên., Web, FB
- Như Thế Nào Là Tỳ Khưu Giới Hạnh Đầy Đủ?, Web, FB
- Thế Nào Là Bốn Điều Đáng Sợ Hãi Chờ Đợi Những Người Xuất Gia?, Web, FB
- Bổn Phận Cư Sĩ Tại Gia Là Gì? Bổn Phận Tu Sĩ Xuất Gia Là Gì?, Web, FB