Hộ Trì Người Sắp Ra Đi Như Thế Nào

[lwptoc]

 

HỘ TRÌ NGƯỜI SẮP RA ĐI NHƯ THẾ NÀO?

❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈

– TD: Con thưa Sư.

Gia đình con có chuyện muốn thỉnh Sư lời hướng dẫn ạ. Bà nội con tuổi tác đã cao sức khoẻ yếu. Hôm qua đã có biểu hiện của bệnh lú lẫn. Nói năng đã không còn minh mẫn tuy vẫn có thể nhớ ra được con cháu.

Con sợ bà con sẽ không sống được lâu nữa.

Hồi còn sống bà con tính tình hay dễ nóng giận và khó hài lòng về mọi chuyện. Năm ngoái chú con bị bệnh đã mất nên là một cú sốc cho bà. Từ đó bà con rất hay khóc lóc than vãn về những người con đã mất và sức khoẻ đi xuống hẳn.

Con muốn thỉnh Sư lời khuyên về việc con muốn chăm sóc bà giai đoạn cuối đời và muốn hướng bà tới Phật Pháp để bà con có thể tích luỹ được chút ít duyên lành cho những kiếp sau. Kính mong Sư xem xét và cho con lời khuyên về trường hợp này ạ. Con xin cảm tạ Sư🙏

– Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala:

🍀 Đức Phật đã dạy rằng kham nhẫn là pháp lành tối thượng như trong nhiều bài kinh như trong Kinh Điềm lành tối thượng [1], hay như trong Đại kinh Giáo giới La Hầu La:

“… Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như đất. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như trên đất người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ không tịnh, quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không dao động, hay không nhàm chán; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập như đất. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.… “

Thái độ xử thế đúng đắn là thái độ của người Phật tử biết kham nhẫn mọi phiền toái của cuộc đời không để cho cuộc đời lung lạc bởi sự khen chê, tốt xấu. Với sự nhẫn nhục đúng pháp, người Phật tử nhìn cuộc đời một cách an nhiên tự tại, không vui khi được khen, không buồn khi bị chê. Vị ấy đón nhận mọi việc với lòng thanh thản, thản nhiên. Người Phật tử cũng là người khéo nói với lời từ tốn, hòa nhã vì “Lời nói không mất tiền mua”. Vậy vì sao không tìm lời tao nhã để nói với nhau?

Hãy kham nhẫn như đất, nước, gió lửa, hư không để kham nhẫn mọi chuyện trên đời [2]. Kham nhẫn là thù diệu nhất vì người con Phật thực hành hạnh kham nhẫnthành thục, thì có thể trừ được sân tâm và hại tâm, là nhân tố quan trọng để hành giả thành tựu từ tâm giải thoát và bi tâm giải thoát: “Trong tư lợi tối thượng, Không gì hơn kham nhẫn.”

🍀 Đi cùng kham nhẫn, tâm từ, bi, hỷ, xả, là nền tảng chắc chắn nhất để có mối quan hệ tốt đẹp nhất giữa mọi người, trong gia đình và xã hội, và cũng là con đường dẫn đến tái sinh cộng trú với chư Phạm Thiên trong cảnh giới thiện thú bậc nhất trong Tam giới [3].

Nếu mỗi người đều cố gắng công thực hành Từ, Bi, Hỷ, Xả, không phân biệt tôn giáo, chủng tộc, nam nữ v.v… trái đất sẽ trở thành một thiên đường, trong đó tất cả chúng sanh chung sống an vui trong tình huynh đệ, và mỗi người sẽ là một công dân lý tưởng trong một thế giới thanh bình an lạc. Từ, Bi, Hỷ, Xả giúp con người trở nên toàn thiện và có lối sống thánh thiện, ngay trong kiếp hiện tại.

Mỗi người đều có thể trau giồi bốn Phạm hạnh thanh cao, nhẹ nhàng êm dịu này để trở nên một phước lành, cho mình và cho mọi người, nhất là đối với cha mẹ, ông bà, thân bằng quyến thuộc và bạn hữu.

🍀 Ngoài việc thực hành hạnh kham nhẫn cũng như từ, bi, hỷ, xả trong mọi hoàn cảnh, đối với mọi chúng sinh, và nhất là đối với cha mẹ, ông bà, chúng ta còn cần phải vun bồi, củng cố hiểu biết chánh kiến về nghiệp và quả của nghiệp: “… các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.” [4](Tiểu kinh Nghiệp phân biệt).

Kammassako: Nghiệp là của riêng mình, mỗi chúng sinh đều có nghiệp là của riêng họ, họ là người thừa hưởng quả của nghiệp của họ, nghiệp của họ sinh ra họ, nghiệp của họ là thân quyến theo hộ trì, hỗ trợ suốt cuộc đời của họ, nghiệp của họ là nơi nương nhờ của họ từ kiếp này sang kiếp khác trong vòng tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài. Cho nên, nếu họ đã tạo thiện nghiệp nào thì họ được thừa hưởng quả an lạc của thiện nghiệp ấy của họ. Và nếu họ đã tạo ác nghiệp nào thì họ phải chịu thừa hưởng quả khổ của ác nghiệp ấy của họ.

Để giúp cha mẹ ông bà cũng như giúp chính bản thân mình tạo thiện nghiệp, những người con, cháu trong gia đình, mỗi người đều phải có bổn phận và trách nhiệm báo ơn đáp nghĩa bậc sinh thành, ông bà, tổ tiên, thầy tổ.

🍀 Tất cả chúng ta, dù xuất gia hay tại gia đều có thể tạo thiện nghiệp bằng cách tri ân và trả ơn đầy đủ cho cha mẹ, ông bà, nếu chúng ta học tập và thực hành theo lời đức Phật dạy trong Tăng Chi bộ Kinh [5]:

“Những ai đền ơn bằng cách nuôi dưỡng, cúng dường cha mẹ với của cải vật chất, tiền bạc thời không bao giờ đủ để trả ơn cha mẹ.

Nhưng này các Tỷ–kheo, ai đối với cha mẹ ❶ không có lòng tin, thì khuyến khích cha mẹ an trú vào lòng tin; đối với cha mẹ ❷ theo ác giới, thì khuyến khích hướng dẫn cha mẹ an trú vào thiện giới; đối với cha mẹ ❸ xan tham, khuyến khích hướng dẫn cha mẹ an trú vào bố thí; đối với cha mẹ ❹ theo ác trí tuệ, thì khuyến khích cha mẹ an trú vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ–kheo tức là làm đủ và trả ơn đủ cho cha và mẹ”.

Những lời dạy của đức Phật, tất cả Phật tử chúng ta đều có thể thực hành được.

Chúng ta đều là đệ tử Phật, là con Phật. Chúng ta đều thọ Tam quy: quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng. Nếu cha mẹ, ông bà chúng ta chưa tin Tam Bảo, thì chúng ta khéo léo hướng dẫn, khuyến khích cha mẹ, ông bà đặt niềm tin ở Tam Bảo, và tiến dần tới Tam quy y.

Phép quy y cũng có ‘sự quy y’ và ‘lý quy y’. Làm lễ quy y Tam Bảo mới chỉ là ‘sự quy y’.

Về ‘lý qui y’, chúng ta còn phải giảng giải cho cha mẹ, ông bà rõ thế nào là Phật, Pháp, Tăng và quy y Phật, Pháp, Tăng có lợi ích như thế nào.

Nếu cha mẹ có làm những điều ác bất thiện nơi thân hay nơi lời nói như sát, đạo, dâm, nói dối, nói chia rẽ, nói ác, nói lời vô nghĩa, thì chúng ta phải khuyên cha mẹ, ông bà

❶ bỏ ác làm lành, khuyến khích cha mẹ, ông bà phóng sanh, thay vì sát sanh;

❷ bố thí thay vì lấy của không cho;

❸ sống chánh hạnh thay vì tà hạnh;

❹ nói lời thật thay vì nói dối;

❺ nói lời đoàn kết thay vì nói chia rẽ;

❻ nói lời dịu hiền thay vì nói ác độc;

❼ nói lời có ý nghĩa thay vì nói vô nghĩa…

Những lời dạy của đức Phật, mặc dù nói ra cách đây hơn hai ngàn năm trăm năm, nhưng vẫn mang tính thời sự cấp thiết đối với xã hội chúng ta hiện nay. Những lời dạy đó xứng đáng là khuôn vàng thước ngọc cho đời sống chúng ta, cho mọi cung cách ứng xử của chúng ta trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Tất cả chúng ta hãy sống theo lời dạy của đức Phật, tức khắc chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc. Nếu ngược lại, chúng ta sẽ bất hạnh và đau khổ.

Vì lợi lạc của mọi người, của số đông, chúng ta hãy phổ biến rộng rãi những lời dạy vàng ngọc đó của đức Phật. Mỗi chúng ta, chứ không gì riêng Tăng sĩ, đều phải khéo trao truyền lời Phật dạy, có như vậy bánh xe pháp mới thường chuyển, ngọn đèn pháp mới ngày đêm sáng tỏ.

🍀 Đức Phật đã từng dạy rằng: “Trong tất cả hình thức bố thí, thì bố thí pháp là đệ nhất”.

Và Pháp tối thắng do Đức Phật truyền dạy để chấm dứt hoàn toàn và vĩnh viễn mọi khổ đau phiền não, đạt được hạnh phúc thật sự tự do thật sự – bất tử, Niết bàn chính là Bát Thánh Đạo dẫn đến giác ngộ Tứ Thánh Đế.

Bị ám ảnh bởi Tâm đảo điên, bởi Kiến đảo điên từ muôn lượng kiếp: chấp thủ rằng thân này là ‘ta’, là ‘của ta’, là ‘tự ngã của ta’ nên mọi người đều cho rằng sự già, bệnh tật, ốm đau trên thân này cũng chính là ‘ta’, là ‘của ta’, là ‘tự ngã của ta’, và do vậy nên không thể thấy được sự già yếu, bệnh hoạn, ốm đau đó không phải là nhược điểm, chướng ngại mà là chỉ là những biểu hiện rõ ràng của Khổ, của Vô thường, của Vô ngã, vì rằng không một ai có thể ra lệnh hoặc điều khiển được thân sác này phải trẻ, phải đẹp, phải khỏe mạnh, không được già, không được xấu không được ốm đau, bệnh hoạn, không được chết.

Như Đức Phật đã chỉ ra sự thực là [6]:

“… Thật sự là vậy, này Gia chủ. Thân của Gia chủ, này Gia chủ, là bệnh hoạn, ốm đau, bị nhiễm ô che đậy.

Ai mang cái thân này, này Gia chủ, lại tự cho là không bệnh, dầu chỉ trong một giây phút; người ấy phải là người ngu!

Do vậy, này Gia chủ, Gia chủ cần phải học tập như sau: ‘Dầu cho thân có bệnh, tâm sẽ không bị bệnh’.

Như vậy, này Gia chủ, Gia chủ cần phải học tập.”

(Tương ưng bộ kinh – Tương Ưng Uẩn – I: Phẩm Nakulapitā)

Và Đức Phật đã chỉ dạy các pháp cần tu tập để có được sự quán chiếu sâu sắc về thân thể, cảm thọ, tâm ý và các đối tượng của tâm ý để thấy rõ tính vô ngã, vô thường của chúng mà từ đó ly tham, không còn chấp thủ, luyến ái, không còn vướng mắc vào chúng thì khi đó người bệnh, người sắp lâm chung sẽ vượt qua được nỗi đau, nỗi lo lắng, sợ hãi cái chết [6].

🍀 Ngoài những pháp hỗ trợ cơ bản nêu trên đối với cha mẹ, ông bà còn tương đối khỏe mạnh, còn tương đối minh mẫn, nếu cha mẹ, ông bà là người đã yếu sức, chỉ còn có thể nằm và lắng nghe đôi chút thì tuyệt đối không nên gây nhiễu loạn bởi các lời than vãn, khóc lóc làm tâm trí thêm bấn loạn, bám víu, chấp thủ, dễ phát tâm hướng tới các cảnh giới tái sinh bất thiện lành hoặc đọa xứ.

Mà thay vào đó, hãy mở cho người sắp ra đi nghe các bài tụng niệm kinh Phật giáo Nguyên Thủy Theravada đối với những người đã từng là Phật tử thuận thành, đã từng là người học và thường xuyên tụng kinh hàng ngày, ví dụ:

🔊 Kinh Tụng Nam Tông – TK Đức Hiền archive.org

🍀 Đối với người chưa thực hành Phật Pháp thường xuyên, chưa phải là Phật tử thì nên mở thường xuyên các bài nhạc kinh Rải Tâm Từ, hoặc bài nhạc kinh Pháp cú… nghe rất êm dịu, rất bình an, rất thánh thiện giúp tâm không bị rối loạn, phát sinh các thiện tâm, hướng về Tam Bảo, là ba nơi nương tựa tối thượng an ổn trên thế gian, dễ dẫn đến các cảnh giới tái sinh thiện lành, ví dụ [7]:

⑴ Rải Tâm Từ: youtu.be
⑵ Kính lễ Đức Phật – Namo tassa Bhagavato Arahato Samasambuddhassa youtu.be
⑶ Tam Qui -Buddham saranam gacchami youtu.be
⑷ Hạnh phúc kinh – Võ Tá Hân youtu.be
⑸ Kinh Pháp Cú – Võ Tá Hân youtu.be
⑹ Trường ca Kệ Phật sử – Võ Tá Hân youtu.be
⑺ Kinh tụng Pali – Kinh Tam Bảo youtu.be
⑻ Kinh tụng Pali – Kinh Tâm Từ Karaniya Metta youtu.be

🍀 Ngoài ra, con cháu trong gia đình có thể nhân dịp này phát tâm thanh tịnh tạo các phước nghiệp [8]: bố thí cúng dường, trai tăng tới chư tỳ khưu [9], trì bát quan trai giới, hành thiền, chia sẻ công đức, tùy hỷ công đức, cung kính, phục vụ, nghe pháp, thí pháp, sửa đổi tà kiến, để có thể hồi hướng công đức [10] mới tạo nên này, và các công đức đã tạo nên từ trước, tới cha mẹ, ông bà cùng các chúng sinh trong 31 cảnh giới.

🍀 để tìm hiểu thêm về Các tiến trình tâm cận tử để có Chánh kiến có thể tham khảo bài giảng của Ngài Đại Trưởng Lão Ledi Sayadaw [11].

Xin hồi hướng mọi công đức và phước báu của Sư đã tạo được tới đạo hữu cùng mọi người trong gia đình, cùng muôn loài chúng sinh.

Nguyện cho oai đức Tam Bảo hộ trì cho đạo hữu cùng tất cả mọi người trong gia đình luôn được khỏe mạnh, thành công, an vui, và hạnh phúc.

Trong tâm từ,

Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala

[Phần ‘Ghi chú’ và ‘Các bài viết liên quan’ dưới đây là nhằm để giúp cho một số đạo hữu ham muốn tìm hiểu chi tiết, đầy đủ, có chứng cứ, nhưng chưa biết cách tìm kiếm trong biển kiến thức bao la, có thể tìm được nguồn Chánh kinh và tài liệu gốc trực tiếp khi cần thiết, một cách thuận tiện và nhanh chóng. Người đọc bình thường có thể bỏ qua phần chuyên sâu và mở rộng này.]

GHI CHÚ:

[1] ĐIỀM LÀNH TỐI THƯỢNG

Tiểu bộ kinh – Kinh tiểu tụng – 5. Kinh Ðiềm Lành

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú tại Sàvatthi, ở Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Rồi một Thiên tử, khi đêm đã gần mãn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetavana, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Ðứng một bên, vị Thiên tử ấy bạch Thế Tôn với bài kệ:

Thiên tử:

Nhiều Thiên tử và người,

Suy nghĩ đến điềm lành,

Mong ước và đợi chờ,

Một nếp sống an toàn,

Xin Ngài hãy nói lên,

Về điềm lành tối thượng.

(Ðức Phật giảng:)

Không thân cận kẻ ngu,

Nhưng gần gũi bậc Trí,

Ðảnh lễ người đáng lễ,

Là điềm lành tối thượng.

Ở trú xứ thích hợp,

Công đức trước đã làm,

Chân chánh hướng tự tâm,

Là điềm lành tối thượng.

Học nhiều, nghề nghiệp giỏi,

Khéo huấn luyện học tập,

Nói những lời khéo nói,

Là điềm lành tối thượng.

Hiếu dưỡng mẹ và cha,

Nuôi nấng vợ và con.

Làm nghề không rắc rối,

Là điềm lành tối thượng.

Bố thí, hành, đúng pháp,

Săn sóc các bà con,

Làm nghiệp không lỗi lầm,

Là điềm lành tối thượng.

Chấm dứt, từ bỏ ác,

Chế ngự đam mê rượu,

Trong Pháp, không phóng dật,

Là điềm lành tối thượng.

Kính lễ và hạ mình,

Biết đủ và biết ơn,

Ðúng thời, nghe Chánh Pháp,

Là điềm lành tối thượng.

Nhẫn nhục, lời hòa nhã,

Yết kiến các Sa–môn,

Ðúng thời, đàm luận Pháp,

Là điềm lành tối thượng.

Khắc khổ và Phạm hạnh,

Thấy được lý Thánh đế.

Giác ngộ quả: “Niết Bàn”

Là điềm lành tối thượng.

Khi xúc chạm việc đời

Tâm không động, không sầu,

Không uế nhiễm, an ổn,

Là điềm lành tối thượng.

Làm sự việc như vầy,

Không chỗ nào thất bại,

Khắp nơi được an toàn,

Là điềm lành tối thượng.

[2] KHAM NHẪN NHƯ ĐẤT, NƯỚC, GIÓ, LỬA, HƯ KHÔNG CÙNG TỪ, BI, HỶ, XẢ

Đại kinh giáo giới La Hầu La

“Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như đất. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như trên đất người ta quăng đồ tịnh, quăng đồ không tịnh, quăng phân uế, quăng nước tiểu, nhổ nước miếng, quăng mủ và quăng máu; tuy vậy đất không lo âu, không dao động, hay không nhàm chán; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập như đất. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như đất, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như nước. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như nước, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như trong nước người ta rửa đồ tịnh, rửa đồ không tịnh, rửa sạch phân uế, rửa sạch nước tiểu, rửa sạch nước miếng, rửa sạch mủ, rửa sạch máu; tuy vậy nước không lo âu, không dao động, không nhàm chán; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập sự tụ tập như nước, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như lửa. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như lửa, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như lửa đốt các đồ tịnh, đốt các đồ không tịnh, đốt phân uế, đốt nước tiểu, đốt nước miếng, đốt mủ, đốt máu; tuy vậy lửa không lo âu, không dao động, không nhàm chán; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như lửa, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như gió. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như gió, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, như gió thổi các đồ tịnh, thổi các đồ không tịnh, thổi phân uế, thổi nước tiểu, thổi nước miếng, thổi mủ, thổi máu, tuy vậy gió không lo âu, không dao động, không nhàm chán; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như gió, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như hư không. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như hư không, các xúc khả ái, không khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại. Này Rāhula, ví như hư không không bị trú tại một chỗ nào; cũng vậy, này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập như hư không. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập như hư không, các xúc khả ái không, khả ái được khởi lên, không có nắm giữ tâm, không có tồn tại.

Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về lòng từ. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về lòng từ, cái gì thuộc sân tâm sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về lòng bi. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về lòng bi, cái gì thuộc hại tâm sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về hỷ. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về hỷ, cái gì thuộc bất lạc sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về xả. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về xả, cái gì thuộc hận tâm sẽ được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về bất tịnh. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về bất tịnh, cái gì thuộc tham ái được trừ diệt. Này Rāhula, hãy tu tập sự tu tập về vô thường. Này Rāhula, do tu tập sự tu tập về vô thường, cái gì thuộc ngã mạn được trừ diệt.”

[3] TÁI SINH CỘNG TRÚ VỚI PHẠM THIÊN

Trung Bộ Kinh – 97. Kinh Dhànanjàni

—Này Dhananjani, thế nào là con đường đưa đến cộng trú với Phạm thiên? Ở đây, này Dhananjani, vị Tỷ–kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ [an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với bi /an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ / an trú biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả], cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ [bi, hỷ, xả ] quảng đại, vô biên, không hận, không sân. Này Dhananjani, như vậy là con đường đưa đến cọng trú với Phạm thiên.

[4] CÁC LOÀI HỮU TÌNH LÀ CHỦ NHÂN CỦA NGHIỆP

Trung Bộ Kinh – 135.Tiểu kinh Nghiệp phân biệt.

… Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì giữa loài Người với nhau, khi họ là loài Người, lại thấy có người liệt, có người ưu?

Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi thấy có người đoản thọ, có người trường thọ; chúng tôi thấy có người nhiều bệnh, có người ít bệnh; chúng tôi thấy có người xấu sắc, có người đẹp sắc; chúng tôi thấy có người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn; chúng tôi thấy có người tài sản nhỏ, có người tài sản lớn; chúng tôi thấy có người thuộc gia đình hạ liệt, có người thuộc gia đình cao quý; chúng tôi thấy có người trí tuệ yếu kém, có người có đầy đủ trí tuệ.

Thưa Tôn giả Gotama, do nhân gì, do duyên gì, giữa loài Người với nhau, khi họ là loài Người, lại thấy có người liệt, có người ưu?

—Này Thanh niên, các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu.

[5] TRẢ ƠN ĐẦY ĐỦ

Tăng chi bộ kinh – IV. Phẩm tâm thăng bằng – 1–11. Ðất

Có hai hạng người, này các Tỷ–kheo, ta nói không thể trả ơn được. Thế nào là hai? Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng mẹ, này các Tỷ–kheo, nếu một bên vai cõng cha, làm vậy suốt trăm năm, cho đến trăm tuổi; nếu đấm bóp, thoa xức, tắm rửa, xoa gội, và dầu tại đấy, mẹ cha có vãi tiểu tiện đại tiện, như vậy, này các Tỷ–kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Hơn nữa, này các Tỷ–kheo, nếu có an trí cha mẹ vào quốc độ với tối thượng uy lực, trên quả đất lớn với bảy báu này, như vậy, này các Tỷ–kheo, cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ mẹ và cha. Vì cớ sao? Vì rằng, này các Tỷ–kheo, cha mẹ đã làm nhiều cho con cái, nuôi nấng, nuôi dưỡng chúng lớn, giới thiệu chúng vào đời này. Nhưng này các Tỷ–kheo, ai đối với cha mẹ không có lòng tin, khuyến khích, hướng dẫn an trú các vị ấy vào lòng tin; đối với mẹ cha theo ác giới, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào thiện giới; đối với mẹ cha xan tham, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào bố thí; đối với mẹ cha theo ác trí tuệ, khuyến khích, hướng dẫn, an trú các vị ấy vào trí tuệ. Cho đến như vậy, này các Tỷ–kheo, là làm đủ và trả ơn đủ mẹ và cha.

[6] THÂN BỆNH NHƯNG TÂM KHÔNG BỆNH

Người Già Cao Tuổi, Đầy Bệnh Hoạn, Luôn Ốm Đau Bằng Cách Nào Có Thể Đạt Tới Hạnh Phúc, An Lạc Lâu Dài?, Web, FB

… Thế nào, này Gia chủ, là thân có bệnh nhưng tâm không có bệnh?

Ở đây, này Gia chủ, vị đa văn Thánh đệ tử

❶ hiểu rõ các bậc Thánh,

❷ thuần thục pháp các bậc Thánh,

❸ tu tập pháp các bậc Thánh,

❹ hiểu rõ các bậc Chân nhân,

❺ thuần thục pháp các bậc Chân nhân,

❻ tu tập pháp các bậc Chân nhân,

⚀ không quán ⑴ sắc như là tự ngã, ⑵ hay tự ngã như là có sắc, ⑶ hay sắc ở trong tự ngã, ⑷ hay tự ngã ở trong sắc.

Vị ấy không bị ám ảnh: “Sắc là ta, sắc là của ta”. Do vị ấy không bị ám ảnh: “Sắc là ta, sắc là của ta” khi sắc biến hoại, đổi khác; nên không do sắc biến hoại, đổi khác mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!

⚁ Không quán ⑴ thọ như là tự ngã, ⑵ hay tự ngã như là có thọ, ⑶ hay thọ ở trong tự ngã, ⑷ hay tự ngã ở trong thọ.

Vị ấy không bị ám ảnh: “Thọ là ta, thọ là của ta”. Do vị ấy không bị ám ảnh: “Thọ là ta, thọ là của ta” khi thọ biến hoại, đổi khác; nên không do thọ biến hoại, đổi khác, mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!

⚂ Không quán ⑴ tưởng như là tự ngã, ⑵ hay tự ngã như là có tưởng, ⑶ hay tưởng ở trong tự ngã, ⑷ hay tự ngã ở trong tưởng.

Vị ấy không bị ám ảnh: “Tưởng là ta, tưởng là của ta”. Do vị ấy không bị ám ảnh: “Tưởng là ta, tưởng là của ta” khi tưởng biến hoại, đổi khác; nên không do tưởng biến hoại, đổi khác mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!

⚃ Không quán ⑴ các hành như là tự ngã, ⑵ hay tự ngã như là có hành, ⑶ hay các hành ở trong tự ngã, ⑷ hay tự ngã ở trong các hành.

Vị ấy không bị ám ảnh: “Các hành là ta, các hành là của ta”. Do vị ấy không bị ám ảnh: “Các hành là ta, các hành là của ta” khi các hành biến hoại, đổi khác; nên không do các hành biến hoại, đổi khác mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!

⚄ Không quán ⑴ thức như là tự ngã, ⑵ hay tự ngã như là có thức, ⑶ hay thức ở trong tự ngã, ⑷ hay tự ngã ở trong thức.

Vị ấy không bị ám ảnh: “Thức là ta, thức là của ta”. Do vị ấy không bị ám ảnh: “Thức là ta, thức là của ta” khi thức biến hoại, đổi khác; nên không do thức biến hoại, đổi khác mà khởi lên sầu, bi, khổ, ưu, não!

Như vậy, này Gia chủ, là thân có bệnh, nhưng tâm không có bệnh.

[7] NHẠC KINH PHẬT GIÁO

⑴ Rải Tâm Từ:, Youtube

⑵ Kính Lễ Đức Phật – Namo Tassa Bhagavato Arahato Samasambuddhassa, Youtube

⑶ Tam Qui -Buddham Saranam Gacchami, Youtube

⑷ Hạnh Phúc Kinh – Võ Tá Hân, Youtube

⑸ Kinh Pháp Cú – Võ Tá Hân, Youtube

⑹ Trường Ca Kệ Phật Sử – Võ Tá Hân, Youtube

⑺ Kinh Tụng Pali – Kinh Tam Bảo, Youtube

⑻ Kinh Tụng Pali – Kinh Tâm Từ Karaniya Metta, Youtube

[8] 10 Phước Nghiệp Là Gì?

  • 10 Thiện Nghiệp Là Gì, Web, FB

[9] Thỉnh Mời Chư Tăng Tới Cúng Dường, Trai Tăng Tại Gia Để Làm Gì? Nên Như Thế Nào?

  • Thỉnh Mời Chư Tăng Tới Cúng Dường, Trai Tăng Tại Gia Để Làm Gì? Nên Như Thế Nào?, Web, FB

[10] Sám Hối – Rải Tâm Từ – Phát Nguyện  – Hồi Hướng Công Đức

  • Tụng Niệm Sám Hối Tha Thứ Rải Tâm Từ, Phát Nguyện Và Hồi Hướng Công Đức Cùng Sumangala Bhikkhu Viên Phúc , Web, FB
  • Video , Youtube

[11] CÁC TIẾN TRÌNH TÂM CẬN TỬ

Trích Chánh kiến và Nghiệp – Tác giả: Ledi Sayadaw. Dịch giả: Pháp Thông

Con người luôn luôn bận rộn với những ý nghĩ tốt và xấu cũng như với những dự định làm điều thiện và ác thế này thế kia. Trong khi mãi còn bận toan tính như vậy, thì tử thần tới vỗ vai và thế là họ phải bỏ lại đằng sau mọi của cải, sở hữu, và những người thân yêu để ra đi khỏi cõi đời này vĩnh viễn. Bởi thế chúng ta phải hiểu rõ tầm quan trọng của thời gian liền trước cái chết (thời cận tử) và làm thế nào để đương đầu với cái chết sắp đến một cách bình tĩnh và lợi ích nhất.

Bốn Nguyên Nhân Của Sự Chết

Cái chết xảy ra do bốn nguyên nhân, là (1) thọ mạng đã mãn, (2) nghiệp lực chấm dứt, (3) sự kết hợp của hai nguyên nhân trên, và (4) cái chết phi thời do một nghiệp lực (là đoạn nghiệp – upacchedakakamma) – làm gián đoạn. Một tỷ dụ thích hợp cho bốn nguyên nhân của sự chết này là sự tắt của một ngọn đèn dầu. Ngọn đèn có thể tắt do bốn nguyên nhân là (1) dầu cạn, (2) tim lụn, (3) sự kết hợp của cả hai: dầu cạn và tim lụn, và (4) nguyên nhân bên ngoài như một cơn gió thình lình thổi tắt hay người nào đó cố ý thổi tắt.

1. Thọ mạng đã mãn

Mỗi cõi sống có một thọ mạng khác nhau. Trong cõi nhân loại này thọ mạng thay đổi tuỳ theo kiếp tăng hay kiếp giảm (kappa). Nếu thế gian ở trong thời kỳ kiếp đang tăng dần, thọ mạng con người cũng tăng theo cho đến vô lượng, trong khi ở chu kỳ thế gian đang giảm, thọ mạng của con người cũng giảm dần xuống tới mức chỉ còn mười năm (tuổi). Khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian này tuổi thọ tối đa được nói là một trăm tuổi. Ngày nay mức đó chỉ vào khoảng bảy mươi lăm. Những người với nghiệp bình thường không thể vượt quá mức tối đa này; chỉ những người sinh ra với năng lực của thiện nghiệp đặc biệt mới có thể sống vượt qua mức bảy mươi lăm. Tuổi thọ của họ có thể quy cho thiện nghiệp quá khứ và các loại thuốc bổ như thuốc trường sinh bất lão – rasāyana, chẳng hạn.

Trong thời kỳ Đức Phật Gotama (Cồđàm), Tôn Giả Maha Cadiếp (Mahākassapa), Tôn Giả Anan (Anandā) và Bà Visakha, thí chủ của ngôi Chùa Đông Phương Tự, đã sống đến 120 tuổi; Tôn Giả Bakula sống đến 160 tuổi. Các vị này đã tạo những thiện nghiệp cực kỳ cao thượng trong những kiếp quá khứ. Người bình thường, không có những thiện nghiệp đặc biệt như vậy, sẽ không sống hơn thọ mạng 75 tuổi của họ. Cái chết ở độ tuổi này được gọi là “thọ mạng bình thường đã mãn”, cũng như dầu hết làm tắt ngọn đèn mặc dù tim (bấc đèn) vẫn còn vậy.

2. Chết do nghiệp lực chấm dứt

Nghiệp lực đưa đến đời sống của một người sẽ hỗ trợ cho cuộc sống từ giai đoạn thụ thai trở đi cho đến ngày năng lực (nghiệp ấy) chấm dứt. Cũng có những nghiệp thuộc loại khác tăng cường thêm cho nghiệp hỗ trợ sự sống chính và khi những nghiệp lực này cạn kiệt, người ta sẽ chết mặc dù thọ mạng của họ vẫn chưa mãn. Vì thế nếu nghiệp lực chấm dứt ở tuổi 50, người đó sẽ chết ở tuổi đó mặc dù thọ mạng của họ là 75. Điều này cũng tương tự như ngọn đèn tắt do tim lụn cho dù dầu trong đèn vẫn còn.

3. Cái chết do cả hai yếu tố trên

Một số chúng sinh chết do thọ mạng và nghiệp lực cạn kiệt, cũng giống như ngọn đèn tắt do cả dầu lẫn tim đều cạn đồng thời. Do đó, có những người sống đến 75 tuổi nếu như họ có sự hỗ trợ của nghiệp lực cho đến tuổi đó. Ba loại chết kể trên gọi là chết đúng thời (kāla–maṇa).

4. Chết phi thời

Upacchedaka có nghĩa là chết phi thời hay cái chết không bình thường. Một số chúng sinh đúng ra vẫn tiếp tục sống vì thọ mạng và nghiệp lực của họ cho phép được sống như vậy. Song nếu những ác nghiệp họ đã làm trong quá khứ bất ngờ trổ quả, thời những ác báo của nghiệp khiến cho họ phải chết một cái chết phi thời. Cái chết này cũng tựa như sự tắt của ngọn đèn do một ngọn gió thổi qua dù tim và dầu vẫn còn, hoặc do một người nào đó cố tình thổi tắt. Một cái chết như vậy thường được gọi là chết do đoạn nghiệp – upacchedaka–kamma, tức là sự gián đoạn do quả của ác nghiệp cực mạnh xen vào.

Tôn Giả Mục Kiền Liên (Mahā Moggallāna), trong một tiền kiếp đã phạm tội giết mẹ. Ác nghiệp này của Ngài đã có cơ hội trổ quả trong kiếp chót làm Mahā Moggallāna; bởi thế ngài phải chịu sự tấn công của năm trăm tên cướp trước khi đúng thời ngài nhập vô dư Niết–bàn (parinibbāna). Vua Tầnbàsala (Bimbisara), một trong những kiếp trước đã đi giày vào trong chánh điện. Do nghiệp xấu này, ngài phải chết đau đớn do những vết thương chính con ngài rạch trên lòng bàn chân trong kiếp hiện tại.

Hoàng hậu Samagoati (Sāmāvatī) và các tỳ nữ của bà, trong một kiếp quá khứ đã châm lửa vào một đống cỏ khô, vô tình trong đó có một vị Phật Độc Giác đang nhập định (Diệt thọ tưởng định) (samapatti). Khi cỏ cháy hết, họ mới khám phá ra rằng mình đã thiêu sống một vị Phật Độc Giác. Để che đậy hành vi tội lỗi ấy (vì họ nghĩ lầm rằng họ đã đốt cháy đức Phật Độc Giác, mà thực ra ngài không thể bị lửa cháy hoặc bị tổn hại gì lúc đang nhập định), họ đã chất thêm củi vào vị Phật Độc giác và châm lửa đốt rồi bỏ đi, nghĩ rằng “Bây giờ thì ngài sẽ cháy ra tro.” Sau khi xuất thiền vào cuối ngày thứ bảy, Đức Phật Độc Giác đứng dậy và ra đi, không bị tổn hại gì cả. Ác nghiệp đó đã tìm được cơ hội để cho quả và vì thế họ phải chết một cái chết phi thời do bị thiêu sống cho đến chết. Đây là những trường hợp trong đó một nghiệp bất thiện mạnh mẽ đã gây ra cái chết phi thời.

Một số cực ác nghiệp có thể tạo ra quả báo tức thời. Ác ma Dūsī (Māra) ném đá vào đầu vị thánh đệ tử của đức Phật Kassapa. Dạ xoa Nanda đánh một búa vào cái đầu mới cạo của Tôn Giả Xá lợi –Phất. Đức Bồ tát Khantivādī khi làm đạo sĩ đã bị giết theo lệnh của đức vua Kalābu. Tất cả những người này – Dūsī, Nanda, và vua Kalābu – do cực ác nghiệp họ làm, đã bị đất nuốt chửng (đất rút) trong kiếp hiện tại của họ. Như vậy, chính những hành vi tàn ác sẽ tạo ra những ác quả tức thời. Cũng tương tự, những người xúc phạm hay xỉ nhục các bậc cha mẹ, người lớn tuổi và giới đức, chắc chắn phải gánh chịu những ác quả của bất thiện nghiệp họ đã làm và chết những cái chết phi thời gọi là akālamaraṇa (phi thời tử) trước khi thọ mạng của họ chấm dứt.

Tầm Quan Trọng Của Phút Giây Cuối Cùng

Khi một người sắp chết do bất kỳ nhân nào trong bốn nhân đã nói, điều quan trọng là họ phải có được những tốc hành tâm thiện (javana–cittas) khoảng nửa giờ trước khi chết. Nếu những thiện tư duy này thắng thế cho đến hơi thở cuối cùng, người ấy chắc chắn sẽ tái sinh trong những cõi an vui. Nếu họ có những tốc hành tâm bất thiện trước lúc chết, chắc chắn họ sẽ phải tái sinh vào bốn ác đạo. Do đó, vòng cuối cùng đối với con ngựa đua quan trọng thế nào, thì những sát–na cuối cùng đối với một người muốn có một tái sinh tốt cũng quan trọng như vậy. Một người có được những tư duy tốt hay xấu trước lúc lâm chung tuỳ thuộc vào loại đối tượng hiện khởi đến tâm họ.

Ba Loại Đối Tượng

Ngay trước lúc chết, người ta sẽ thấy một trong ba đối tượng, đó là, kamma (nghiệp),kamma nimitta (nghiệp tướng) và gati–nimitta (thú tướng). Ở đây nghiệp có nghĩa là những việc làm tốt hoặc xấu (nói khác hơn, những tư hay chủ ý – cetanā – thiện hoặc ác) họ đã làm trong quá khứ. Nghiệp tướng – Kamma nimitta là những vật dụng hay công cụ họ đã dùng trong việc thực hiện những việc làm thiện hay ác ấy. Thú tướng – gati nimitta là viễn ảnh về cảnh giới hay nơi họ sẽ tái sinh vào đó.

Nghiệp Xuất Hiện Như Đối Tượng Như Thế Nào

Khi các nghiệp quá khứ hay hành động mà người ta đã thực hiện chỉ một vài giây trước, hoặc chỉ nửa giờ hay một giờ trước, hoặc có khi những nghiệp đã thực hiện nhiều kiếp trước, hoặc nhiều đại kiếp trước, có cơ hội cho quả tái sinh trong kiếp sống kế, chúng sẽ xuất hiện ngay đến tâm của người sắp chết. Liên quan đến sự xuất hiện của nghiệp, cần nói rõ ở đây là, nếu nghiệp ấy là nghiệp bố thí hoặc giữ giới, nó sẽ xuất hiện bằng cách nhớ lại hoặc bằng cách tự hiện khởi ngay lúc đó giống như trong một giấc mơ vậy. Vì thế có hai cách xuất hiện của thiện nghiệp. Còn đối với các nghiệp bất thiện, nếu nghiệp ấy là sát sinh, thì sự xuất hiện của nghiệp là được nhớ lại hay do nó tự hiện khởi như thể việc sát sinh ấy đang được làm ngay lúc đó. Như vậy cũng có hai cách xuất hiện của bất thiện nghiệp. Đối với các nghiệp thiện và bất thiện khác sự xuất hiện cũng cần được hiểu theo cách như vậy.

Nghiệp Tướng Xuất Hiện Như Thế Nào

Ai từng sát sinh sẽ thấy những vũ khí họ đã sử dụng: gươm, dao, lưới (cá), mũi tên, gậy gộc, v.v… như cảnh cận tử. Một người đồ tể được bảo là sẽ thấy những hình ảnh có tính cách tiên tri của một đống xương bò. Ai từng làm những việc vô đạo đức như trộm cắp, tà dâm v.v…, sẽ thấy những cảnh tượng tương xứng với ác nghiệp của họ.

Ai từng làm những việc thiện như xây Chùa, tạo Tháp sẽ thấy những cảnh Chùa Chiền, Bảo tháp ngay trước lúc chết. Hoặc họ có thể thấy những vật mà họ đã bố thí, cúng dường kết hợp với thiện sự xây Chùa tạo Tháp của họ, như Y, Bát, hương hoa, đèn nến v.v… Đối với những người đã từng giữ giới hoặc hành thiền sẽ thấy những hình ảnh như xâu chuỗi, áo quần sạch sẽ, thiền đường, những cánh rừng nơi hành giả thường tới hành thiền v.v… Những ai từng làm việc phục vụ, cung kính khác cũng sẽ thấy những hình ảnh tương xứng.

Thú Tướng Xuất Hiện Như Thế Nào

Vào thời cận tử, những dấu hiệu như điềm báo trước sẽ xuất hiện để cho biết đời sống kế tiếp của một người. Nếu một người sẽ tái sinh Thiên giới, những Thiên nữ, Thiên cung, và Thiên viên v.v… sẽ xuất hiện trước mắt (tâm) người ấy. Nếu một người sẽ tái sinh trong cõi nhân loại, màu đỏ của thành vách thai bào của người mẹ tương lai sẽ xuất hiện với họ. Nếu địa ngục là số phận của họ, thời họ sẽ thấy những con chó đen (hắc khuyển), lửa địa ngục, hay những người cai quản địa ngục. Người sắp trở thành ngạ quỷ (petas) sẽ thấy những khu rừng lớn, núi non, sông nước, bờ biển nơi họ sẽ cư trú.

Sự Biểu Lộ Trên Gương Mặt

Sự biểu lộ trên gương mặt của người sắp chết sẽ chỉ ra cho thấy lần sanh kế của họ. Nếu gương mặt họ trong sáng và hân hoan, chắc chắn họ sẽ tái sinh trong những cảnh giới cao (như Chư Thiên v.v…). Một gương mặt u ám, buồn rầu hay nghiêm khắc cho thấy sự tái sinh của họ sẽ là các cảnh giới thấp. Tuy nhiên, cũng có trường hợp họ sẽ mỉm cười trong trạng thái mê mẩn đối với các dục lạc quá khứ. Những nụ cười ấy không thể xem như dấu hiệu tốt.

Sự Biểu Hiện Qua Lời Thì Thào

Đôi khi người sắp chết thì thào hay nói khe khẽ những lời gì đó không rõ rệt một cách vô ý thức. Xưa có một ông già, Cha của Trưởng lão Sona, bậc Alahán, từng là thợ săn lúc còn trai trẻ, về già ông xuất gia làm Tỳ Khưu trong Chùa của chính con ông. Khi sắp chết, trong cảnh cận tử, ông thấy những con chó đen cứ rượt đuổi theo ông. Ông kêu lên liên tục “Này con ơi! Hãy đuổi lũ chó đi cho cha.”

Ngài Sona biết rằng cha mình đang thấy những điềm xấu và chắc chắn sẽ sinh vào địa ngục. Nhờ các vị sư trong chùa tìm kiếm những bông hoa tức thời đem ra rải chúng trên nền Tháp (thờ Xá Lợi), ngài khiêng cha cùng với giường đến bên Tháp và nói với ông, “Này Sư Phụ, hãy hoan hỷ lên. Con đã cúng dường hoa nhân danh Sư Phụ đó.” Người cha hồi tỉnh và trong lúc đang cúng dường hoa với sự chú tâm vào Đức Phật thì bất tỉnh trở lại. Trong cảnh cận tử bây giờ ông thấy các Thiên nữ (nàng tiên trên trời) và vì thế ông thì thào, “Này con, hãy mời họ ngồi; các kế mẫu của con đang đến kìa.” Lúc đó người con nghĩ, “Bây giờ những dấu hiệu của cảnh giới Chư Thiên đã xuất hiện.” Vị sư già chết và được sinh lên Thiên giới.

Các Loại Thú Tướng (Gati–nimitta) Khác

Có một số người lúc sắp chết chợt thấy những cảnh thực về lần tái sinh kế của họ. Vào thời Đức Phật Gotama (tức Đức Phật Thích Ca của chúng ta), Revati vợ của một người đàn ông giàu có tên Nandiya, là người đàn bà rất kiêu căng tự phụ. Bà không có đức tin nơi đức Phật và thường hay phỉ báng các vị Tỳ Khưu; ngược lại chồng bà là một thiện nam rất mộ đạo. Sau khi chết ông trở thành một vị Chư Thiên. Khi Revati sắp chết, hai giám ngục từ địa ngục tới lôi bà lên thiên giới và chỉ cho bà thấy cuộc sống huy hoàng mà Nandiya (chồng bà) đang hưởng thụ. Rồi chúng lại kéo bà xuống địa ngục để trừng phạt bà về thái độ độc ác trên nhân thế.

Cũng trong thời Đức Phật, một thiện nam đáng kính tên Dhammika (Thăm–mí–ká) quy y nơi Tam bảo. Ông hướng dẫn một nhóm thiện tín sống cuộc đời đạo đức. Khi giờ chết đến gần, ông lắng nghe bài kinh các vị Tỳ Khưu tụng bên giường bệnh của ông, và thấy sáu cỗ Thiên xa (xe từ cõi trời xuống) đang chờ ở trên đầu để đưa ông về Thiên giới (devaloka). Ông cũng thấy và nghe các vị Chư Thiên tranh nhau xem ai sẽ là người đưa ông lên Thiên Xa của họ. Chẳng bao lâu ông chết và được Thiên Xa của cõi Trời Tusita (Đẩu Suất) chở lên Thiên giới, nơi đây ông trở thành một vị Chư Thiên (deva).

Đối với những người bị đất nuốt chửng (đất nứt) do những ác nghiệp nghiêm trọng (ngũ nghịch đại tội), họ sẽ cảm thọ trực tiếp cái nóng của lửa địa ngục Atỳ (Avicī) ngay trong hiện tại. Như vậy, bây giờ chúng ta đã thấy thú tướng (gati–nimitta) xuất hiện theo những cách khác nhau. Trong thời đại của chúng ta cũng vậy, có số người lúc lâm chung nghe được tiếng nhạc (trời) và ngửi được mùi hương thơm ngào ngạt, có khi những người đứng kế bên cũng nghe và ngửi thấy nữa. Những gati–nimitta này cùng với nghiệp (kamma) và nghiệp tướng (kamma nimitta) thường xuất hiện như những ảo ảnh do sức mạnh của nghiệp quá khứ tìm được cơ hội cho quả.

Giúp Cho Cảnh Tốt Xuất Hiện

Khi một người bị bệnh đang dần dần chết một cái chết tự nhiên, các vị thầy tổ, bạn bè và thân quyến của họ có thể giúp cho những đối tượng tốt xuất hiện trong thị lực của người sắp lâm chung ấy. Khi biết chắc rằng người bệnh không thể hồi phục được, họ sẽ dọn dẹp phòng và khu vực quanh đó cho thật sạch sẽ và cúng dường hương hoa lên Đức Phật (bàn thờ Phật). Ban đêm, toàn bộ căn phòng phải được thắp sáng. Họ sẽ khuyên người sắp chết hình dung đến cảnh hương hoa, đèn nến đã được cúng dường đến Đức Phật nhân danh họ và yêu cầu người ấy hoan hỷ với thiện sự này. Họ cũng sẽ đọc những bài kinh Paritta (kinh Bảo–hộ) lúc mà tâm người bệnh vẫn có thể nghĩ đến những đối tượng thiêng liêng. Người thân không nên cảm thấy thất vọng và người săn sóc họ cũng không nên để lộ vẻ u sầu. Việc đọc kinh và cúng dường hương hoa không chỉ làm vào giây phút cuối cùng trước khi người ấy chết, mà phải được thực hiện trước đó nhiều ngày. Chỉ như vậy người sắp chết mới được thấm nhuần trong những ý nghĩ về thiện nghiệp cúng dường Đức Phật và giáo pháp, ngửi được mùi hương ngào ngạt của những bông hoa, nghe được những âm thanh của pháp bảo, hay những lời dạy của Đức Phật trong vài ngày.

Như vậy, khi giây phút lìa đời đến gần, vào lúc người bệnh đang nhìn thấy ánh sáng và hoa quả cúng dường trước đức Phật, ngửi mùi hương trầm ngào ngạt, nghe những lời pháp bảo, thì tử tâm sẽ phát sinh trước khi những đối tượng này biến mất. Vì lẽ đó những tư duy thiện của giây phút cuối cùng này thuộc về thiện nghiệp, người chết chắc chắn sẽ tái sinh vào những cảnh giới tốt. Bởi thế các vị thầy tổ, bạn bè và thân quyến phải có trách nhiệm giúp cho những đối tượng thiện xuất hiện đến tâm người sắp chết trong lúc họ vẫn còn khả năng hướng tâm mình vào những đối tượng này. Hãy nhớ việc Trưởng lão Sona đã giúp cho những dấu hiệu xấu của cha mình biến mất và làm cho những tướng tốt xuất hiện đến tâm ông như thế nào, để giúp cho người sắp chết có được những lợi ích đúng như vậy.

Tâm Tái Sinh Xuất Hiện Như Thế Nào

Liền sau tử tâm (thuộc kiếp trước) chấm dứt, tâm tái sinh khởi lên trong kiếp sống mới. Hai tâm này liên quan lẫn nhau. Giữa tử tâm và tâm tái sinh không có khoảng cách (gián đoạn) nào cả. Một người vừa lìa đời ở cõi nhân loại ngay lập tức sẽ tái sinh trong một cảnh giới nào đó, có thể là địa ngục hay thiên giới. Ngay sau khi chết, tâm tái sinh xuất hiện và đưa đến sự hình thành của một chúng sinh mới, một kiếp sống mới.

Hai Tà Kiến

Chúng ta phải rất thận trọng, bởi nếu không chúng ta sẽ quan niệm về sự chết và tái sinh trong ánh sáng của hai tà kiến là thường kiến (sassata–diṭṭhi) và đoạn kiến (uccheda–diṭṭhi). Tin rằng có một linh hồn cư trú trong thể xác, và chính linh hồn này chuyển di sang một thân mới để trở thành một chúng sinh khác là thường kiến (sassata: cho rằng linh hồn là vĩnh hằng + diṭṭhi: tà kiến). Tin rằng mọi danh (nāma) và sắc (rūpa) của kiếp trước (kể cả những gì họ nghĩ là linh hồn) không hề có sự tiếp tục trong kiếp sống mới, khi một người chết mọi chuyện trong kiếp trước kể như chấm dứt (đi đến sự huỷ diệt hoàn toàn), và có lẽ một chúng sinh mới có thể do thượng đế tạo ra, là đoạn kiến (uccheda: cuối cùng của một đời người tất cả danh và sắc trong kiếp đó hoàn toàn huỷ diệt; không có sự liên tục nào cả +diṭṭhi: tà kiến)

Chánh Kiến

Đối với người phải tái sinh trong một kiếp sống mới, ba yếu tố – vô minh (avijjā), tham ái (taṅhā), và nghiệp (kamma) được xem là quan trọng nhất. Khi cái chết tới gần, vô minh che đậy những khuyết điểm của các uẩn danh và sắc trong kiếp sống kế. Tham ái lúc này khao khát đối với kiếp sống ấy. Mặc dù những dấu hiệu (tướng trạng) xấu xa và đáng sợ của kiếp sống kế xuất hiện, tham ái nghĩ rằng nó sẽ được một cuộc sống không có những điều xấu xa, đáng sợ ấy. Như vậy, do không thấy khuyết điểm (của các uẩn) vì vô minh đã che đậy nó, tham ái có khuynh hướng hướng đến và chấp thủ cuộc sống mới. Trong kiếp sống mới đó, do sức mạnh của nghiệp, danh và sắc vốn gọi là tái sinh sẽ được thiết lập đầu tiên.

Như vậy, vì danh và sắc, vào sát na tục sinh trong một kiếp sống mới, phát sinh như kết quả của vô minh, tham ái và nghiệp trong kiếp sống trước, đoạn kiến cho rằng “những người mới sinh (do sự sáng tạo của Thượng đế, v.v…) không có sự liên quan nào với kiếp sống trước”, là không đúng; và thường kiến cho rằng “linh hồn từ kiếp trước đầu thai vào kiếp sống mới” cũng không đúng nốt. Nói gì đến danh và sắc trong kiếp sống trước đầu thai vào kiếp sống mới, ngay cả trong một đời người, danh và sắc sanh ở một nơi, cũng đã không di chuyển sang một nơi khác rồi, vì chúng diệt liền sau khi sanh vậy. Cho nên những gì được gọi là “linh hồn thường hằng” về cơ bản là phi hữu (non–existent: phi hữu, không có hay không tồn tại)

Bởi thế, chúng ta phải rất cẩn thận không nên để bị dẫn dắt đi lầm đường bởi hai tà kiến này. Chúng ta phải hiểu rằng trong một kiếp sống mới, sự thụ thai, sự hình thành của danh và sắc, là kết quả của vô minh, tham ái, và nghiệp của kiếp trước. Đây là chánh kiến duy nhất. Khi chúng ta hét lớn trong vùng phụ cận của một ngọn núi, chúng ta sẽ nghe thấy một tiếng vang. Tiếng vang này không phải là âm thanh ban đầu do chúng ta tạo ra, song nó cũng không độc lập với âm thanh đầu tiên ấy. Khi một cây đèn được mồi từ ngọn lửa của cây đèn thứ nhất, ngọn lửa mới không phải là ngọn lửa của cây đèn thứ nhất; song nó cũng không độc lập với ngọn lửa của cây đèn ấy. Cũng vậy, kiếp sống mới không phải là sự đầu thai của kiếp sống cũ; song nó cũng không độc lập với kiếp sống cũ. Hãy nhớ rằng nếu nghiệp quá khứ là bất thiện, kiếp sống hiện tại cũng sẽ là bất thiện như vậy. Có thể nói, những kinh nghiệm tốt và xấu trong kiếp hiện tại được giải thích bởi hai yếu tố: những hành động (nghiệp) đã làm trong quá khứ, và sự hiểu biết hay kiến thức và nỗ lực chuyên cần trong kiếp hiện tại.

Kết luận

Khi chúng ta nói “một người chết” không có nghĩa rằng đối với người đó thế là hết không còn gì nữa; việc quan trọng là người ấy có được tái sinh trong một kiếp sống tốt đẹp hay không, vì chính để được tái sinh trong một kiếp sống mới mà người ta chết vậy. Và để sửa soạn cho mình có được một tâm trạng tốt ngay trước cái chết – điều chỉ có được khi người ta chết ít đau đớn, ốm đau nhẹ nhàng đến mức có thể, và nhất là phải có những người bạn lành biết làm cách nào để trợ giúp chúng ta vào lúc lâm chung – điều tốt hơn và lợi ích hơn cả vẫn là chúng ta biết chuẩn bị trước cho kiếp sống tương lai, thay vì chờ đến giây phút cuối cùng. Chúng ta phải có một cuộc sống đạo đức, và chuẩn bị cho ngày chết của mình sao cho có được một tái sinh tốt đẹp trong vòng luân hồi này cho đến khi chứng đắc Niết–bàn.

❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈❈

Bài viết liên quan

  • Danh Mục Các Bài Viết Quan Trọng, Web, FB
  • Người Già Cao Tuổi, Đầy Bệnh Hoạn, Luôn Ốm Đau Bằng Cách Nào Có Thể Đạt Tới Hạnh Phúc, An Lạc Lâu Dài?, Web, FB
  • Siêu Thoát Và Con Đường Đưa Tới Siêu Thoát, Web, FB
  • Cầu Xin, Cầu An, Cầu Siêu Hay Trì Giới:, Web, FB
  • Các Chúng Sinh Là Chủ Nhân Của Nghiệp Do Mình Tạo Ra, Web, FB
  • Làm Gì Thay Thế Mê Tín Tế Lễ Cầu Siêu Cô Hồn Ngạ Quỉ Trong Dịp “Lễ Vu Lan Của Đạo Tầu”?, Web, FB
  • Hồi Hướng Phước Báu Tới Người Qúa Vãng, Web, FB
  • Hồi Hướng Công Đức Phước Báu Tới Thân Nhân Quá Vãng Như Thế Nào?, Web, FB
  • Cầu Siêu, Web, FB
  • Người Có Chánh Kiến Nên Có Quan Kiến Vè Tháng Cô Hồn Như Thế Nào?, Web, FB
  • Tụng Kinh Cầu An – Chúc Phúc Nhân Dịp Năm Mới:, FB
  • Sám Hối – Rải Tâm Từ – Phát Nguyện – Hồi Hướng Công Đức, FB
  • Video: , Youtube
  • Làm Gì Để Trả Ơn Đủ Mẹ Và Cha, Web, FB
  • Thỉnh Mời Chư Tăng Tới Cúng Dường, Trai Tăng Tại Gia Để Làm Gì? Nên Như Thế Nào? , Web, FB
  • Cúng Dường Là Gì, Web, FB
  • Không Chỗ Nào Trên Đời, Trốn Được Quả Ác Nghiệp., Web, FB
  • Như Bóng Không Rời Hình, Web, FB
  • Như Nước Nhỏ Từng Hạt, Rồi Bình Cũng Đầy Tràn., Web, FB
  • Vì Sao Có Kẻ Ác Lại Gặp Điều Thiện Lành? Vì Sao Có Người Thiện Lại Gặp Điều Ác Dữ?, Web, FB
  • Công Bằng Có Không? Công Bằng Ở Đâu?, Web, FB
  • Nhân & Quả – Cái Chết Của Đệ Nhất Thần Thông Ðại Mục-Kiền-Liên, Web, FB
  • Không Chỗ Nào Trên Đời, Trốn Được Quả Ác Nghiệp., Web, FB
  • Địa Ngục Có Hay Không, Web, FB
  • Sám Hối Như Thế Nào? Để Làm Gì, Web, FB
  • Sám Hối – Tha Thứ – Rải Tâm Từ – Phát Nguyện – Hồi Hướng Công Đức:, Web, FB
  • Nhà Bao Việc, Web, FB
  • 10 Thiện Nghiệp Là Gì, Web, FB
  • Mọi Việc Rồi Sẽ Qua, Web, FB
  • Từ Thiện – Bố Thí – CúNg DườNg – Dāna Với Sự Hiểu Biết, Web, FB
  • Suy Xét Làm Phước Thiện Bố Thí, Web, FB
  • Xây Chùa, Tháp, Dựng Tượng Phật Có Thuộc Vào Thí Sự Không?, Web, FB
  • Bỏ Công Trực Tiếp Bố Thí Có Lợi Ích Gì?, Web, FB
  • Sai Khác Giữa Có Bố Thí Và Không Bố Thí?, Web, FB
  • Bố Thí Xứng Bậc Chân Nhân, Web, FB
  • Bố Thí Ba-La-Mật, Web, FB
  • Bố Thí Là Việc Dễ Làm, Song Bố Thí Để Tạo Được Phước Thiện Không Phải Là Việc Dễ, Mà Được Phước Thiện Vô Lượng Càng Khó Hơn…, Web, FB
  • Video 2A/4: Dāna – Charity – Bố Thí Cúng Dường, Web, FB
  • Phước Nghiệp Bố Thí Cúng Dường, Youtube
  • Quả Báu Và Phân Loại Phước Nghiệp Bố Thí Cúng Dường, Youtube
  • Tích Truyện Về Quả Báu Phước Nghiệp Bố Thí, Youtube
  • Chi Phần Của Ngũ Giới Và Bát Quan Trai Giới, Web, FB
  • Quả Báu Đại Thiện Nghiệp Trì Ngũ Giới Quả Xấu Ác Nghiệp Phạm Ngũ Giới, Web, FB
  • Sát Sinh, Web, FB
  • Cá Và Thịt Có Được Phép Thọ Dụng Không?Ba Điều Tuyệt Đối Thanh Tịnh Là Gì?Mười Loại Thịt Không Được Phép Thọ Dụng Là Gì?, Web, FB
  • Ăn Chay Là Tu, Web, FB

Bài viết trên Facebook, 6 Tháng 7, 2020