Sát Sinh Cúng Đồ Ăn Cho Người Chết

SÁT SINH CÚNG ĐỒ ĂN CHO NGƯỜI CHẾT, HOẶC DÂNG LỄ TẤT NIÊN, HOẶC LÀM TẾ, LỄ, GIỖ, TẾT, CẦU AN, GIẢI HẠN LỢI ÍCH GÌ?

🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂🍂

Vì thấy còn nhiều người bà con, anh chị em, thân bằng quyến thuộc, bạn hữu, người quen, kẻ lạ còn mê mờ, không ghê, không sợ, hoặc tự tay sát hại chúng sinh, hoặc đặt hàng, hoặc chung đụng, môi giới mổ giết chúng sinh để làm đồ cúng tế nhân ngày lễ, ngày tết nên nhắc lại câu chuyện lịch sử trong kinh tạng về kẻ tội đồ bị chém đầu suốt năm trăm kiếp sống để trả nghiệp sát sinh của mình.

Xót thương thay!

(Chuyện tiền thân Matakabhatta)

Nếu chúng sanh biết được…,

Câu chuyện này, khi ở tại Kỳ Viên, bậc Ðạo Sư đã kể về đồ ăn cúng người chết. Trong thời ấy, nhiều người giết hại nhiều dê cừu… để cúng đồ ăn cho người thân đã mệnh chung. Các Tỷ–kheo thấy họ làm như vậy, hỏi bậc Ðạo Sư:

– Bạch Thế Tôn, nay nhiều người giết hại sinh mạng nhiều loài hữu tình để cúng đồ ăn cho người chết, Bạch Thế Tôn, ở đây có hạnh phúc, lợi ích nào không?

Thế Tôn nói:

– Cúng đồ ăn như vậy cho người chết không có lợi ích gì. Khi đã sát sanh, làm sao có lợi ích được? Thuở xưa, các bậc Hiền trí ngồi giữa hư không thuyết pháp, nói rõ nguy hại của tập tục này, khiến toàn thể dân chúng ở cõi Diêm–phù–đề bỏ hành động ấy. Nhưng nay, bị sanh hữu tích lũy, nên hành động ấy lại khởi lên.

Nói vậy xong, Thế Tôn kể câu chuyện quá khứ.

*

Thuở xưa, khi vua Brahmadatta đang trị vì ở Ba–la–nại, một Bà–la–môn thông hiểu ba tập Vệ–đà, một danh sư nổi tiếng bốn phương, muốn cúng dường đồ ăn cho người chết, cho bắt một con dê và bảo các đệ tử.

– Này các con thân, hãy dẫn con dê này đến sông, tắm cho nó, đeo vòng hoa ở cổ nó, cho nó ăn lúa độ nửa đấu, chải chuốt cho nó rồi đem nó lại đây.

Các đệ tử vâng lời, dắt dê đến sông, tắm cho nó, chải chuốt cho nó, rồi để nó đứng trên bờ sông. Con dê ấy thấy được việc của mình đã làm từ đời trước, suy nghĩ: “Hôm nay, ta sẽ được thoát đau khổ”, vì vậy nó cảm thấy sung sướng, cười lớn tiếng như đập bể cái ghè, lại nghĩ: “Bà–la–môn này, khi giết ta, sẽ chịu nỗi đau khổ của ta thuở trước”, nó khởi lòng thương hại người Ba–la–môn và khóc lớn tiếng. Các thanh niên ấy hỏi nó:

– Này bạn, bạn cười lớn tiếng rồi khóc lớn tiếng. Vì nhân gì bạn cười, vì nhân gì bạn khóc?

– Hãy hỏi câu hỏi này trước mặt thầy các ông!

Họ đem con dê ấy đi, và báo cáo cho thầy biết. Vị thầy nghe câu chuyện, hỏi con dê:

– Này dê, sao ngươi lại cười và sao ngươi lại khóc?

Con dê nhờ trí biết được đời trước, nhớ đến việc đã làm của mình, và nói với Bà–la–môn:

– Này Bà–la–môn, thuở trước, giống như ông, ta là một Bà–la–môn học giỏi các chú thuật, muốn cúng dường đồ ăn cho người chết, đã giết một con dê để cúng dường. Vì giết chỉ một con dê, ta bị chém đầu trong bốn trăm chín mươi chín lần sống chết. Nay là lần thứ năm trăm sống chết cuối cùng của ta. Hôm nay, ta sẽ thoát khỏi sự đau khổ ấy. Nghĩ vậy, ta cảm thấy sung sướng, do nhân duyên này ta cười. Còn ta khóc, vì ta nghĩ rằng chỉ vì giết một con dê, ta phải chịu khổ hình chặt đầu đến năm trăm lần. Hôm nay ta sẽ thoát cái khổ ấy. Nhưng Bà–la–môn này, vì giết ta, sẽ như ta chịu khổ hình chặt đầu trải năm trăm đời sống. Vì thương xót ông, nên ta khóc.

– Này dê, chớ sợ, ta sẽ không giết ngươi!

– Này Bà–la–môn, ông nói gì thế? Dầu ông có giết ta hay không, hôm nay ta cũng không thể thoát chết!

– Này dê, chớ sợ, ta sẽ bảo vệ ngươi, sẽ cùng đi với ngươi!

– Này Bà–la–môn, nhỏ nhoi thay là sự bảo vệ của ông và mạnh bạo thay là nghiệp ác ta làm!

Vị Bà–la–môn thả con dê ra, nói với các đệ tử:

Và cùng với các đệ tử, vị Bà–la–môn đi theo con vật. Con dê vừa được thả, vươn cổ lên, đến bụi cỏ mọc sau lưng tảng đá ấy, và bắt đầu ăn lá cỏ. Liền khi ấy, sét đánh trên lưng tảng đá ấy, một mảng đá bị đánh vỡ, rơi trên cổ con dê đang vươn ra và chặt đứt đầu. Nhiều người qui tụ lại xem.

Lúc bấy giờ, Bồ–tát sanh làm vị thần cây tại chỗ ấy. Với uy lực của vị thần, Bồ–tát ngồi kiết–già trên hư không, trên đại chúng đang đứng nhìn, và suy nghĩ: “Những chúng sanh này, nếu biết được kết quả của việc ác như vậy, sẽ không làm ác nữa!” Rồi với âm thanh dịu ngọt, Ngài thuyết pháp qua bài kệ:

Nếu chúng sanh biết được

Sự này sanh đau khổ,

Hữu tình sẽ không còn

Giết hại hữu tình nữa,

Vì ai giết hũu tình,

Sẽ phải sầu, phải khổ.

Như vậy, bậc Ðại Sĩ thuyết pháp khiến cho mọi người sợ hãi địa ngục. Và nhiều người nghe bài thuyết pháp ấy, biết sợ hãi điạ ngục, nên từ bỏ sát sanh. Bồ–tát thuyết pháp xong, an trú quần chúng vào Ngũ giới, rồi về sau đi theo nghiệp của mình. Còn quần chúng, an trú trong lời khuyên của Bồ–tát, sau khi làm các phước đức như bố thí v.v… được sanh lên thiên giới, làm tràn đầy thành phố chư Thiên.

*

Bậc Ðạo Sư thuyết pháp thoại này xong, kết hợp hai câu chuyện với nhau, và nhận diện Tiền thân như sau:

– Thời ấy, Ta là vị thần cây.

Nguồn trích dẫn: Tiểu Bộ Kinh – Tập IV – Chuyện Tiền Thân Đức Phật (I) 18. Chuyện Ðồ Ăn Cúng Người Chết (Tiền thân Matakabhatta)

❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁

Quả của ác nghiệp của người phạm điều giới sát sinh

❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁❁

⚀ Người nào phạm điều giới sát sinh, giết hại sinh mạng của chúng sinh, dù lớn dù nhỏ cũng tạo nên ác nghiệp sát sinh.

Nếu có tội nặng, thì sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy cho quả tái sinh trong cõi ác giới, chịu quả khổ của ác nghiệp ấy cho đến khi mãn quả của ác nghiệp, mới thoát được khỏi cõi ác giới.

Sau khi thoát khỏi cõi ác giới, trường hợp nếu có thiện nghiệp nào khác cho quả tái sinh trở lại làm người. Và trường hợp, nếu người nào phạm điều giới sát sinh, tạo ác nghiệp sát sinh có tội nhẹ, sau khi người ấy chết, ác nghiệp sát sinh ấy không có khả năng cho quả tái sinh, mà thiện nghiệp nào khác có cơ hội cho quả tái sinh trở lại làm người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ còn phải chịu quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ kiếp quá khứ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải về 23 quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ kiếp quá khứ như sau:

1– Có thân hình tật nguyền.

2– Có thân hình không cân đối, xấu xí.

3– Là người chậm chạp.

4– Có lòng bàn tay, và dưới lòng bàn chân lõm sâu (không đều đặn).

5– Có thân hình xấu xí, đầy sẹo.

6– Có sắc diện tối tăm.

7– Có da thịt sần sùi.

8– Có tính hay sợ hãi.

9– Có sức khỏe yếu đuối.

10– Có lời nói lặp đi lặp lại, không suôn sẻ.

11– Bị mọi người ghét bỏ.

12– Có những bộ hạ tùy tùng bị chia rẽ.

13– Có tính hay giật mình, hoảng sợ.

14– Thường bị tai nạn do khí giới, thuốc độc…

15– Là người si mê, ngu dốt.

16– Có rất ít bạn bè.

17– Có thân hình dị hợm, đáng ghê sợ.

18– Có thân hình kỳ dị.

19– Hay bệnh hoạn ốm đau.

20– Thường sầu não, lo sợ.

21– Con cháu thường xa lánh.

22– Mỗi kiếp thường bị chết yểu.

23– Bị chết do người khác giết.

Đó là 23 quả xấu của ác nghiệp sát sinh từ trong kiếp quá khứ.

⚁ Quả của thiện nghiệp của người giữ điều giới không sát sinh

Người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn, trong đó có điều giới “có tác ý tránh xa sự sát sinh”; sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không sát sinh ấy cho quả tái sinh làm vị thiên nam hoặc thiên nữ trong cõi trời dục giới, hưởng mọi sự an lạc trong cõi trời ấy cho đến hết tuổi thọ.

Sau khi chết tại cõi trời ấy, nếu trường hợp thiện nghiệp không sát sinh cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người. Và trường hợp, nếu sau khi người ấy chết, thiện nghiệp không sát sinh không cho quả tái sinh lên cõi trời dục giới, mà lại cho quả tái sinh trở lại làm người trong cõi người; thì cả hai trường hợp này, người ấy sẽ có được quả báu tốt của thiện nghiệp không sát sinh từ kiếp quá khứ đáng hài lòng hoan hỷ.

Trong Chú giải Khuddakapātha giảng giải 23 quả báu của thiện nghiệp không sát sinh từ kiếp quá khứ như sau:

1– Có thân hình không tật nguyền, đầy đủ các bộ phận lớn nhỏ trong cơ thể.

2– Có thân hình cân đối xinh đẹp.

3– Là người nhanh nhẹn.

4– Có lòng bàn tay, lòng bàn chân đầy đặn.

5– Có thân hình xinh đẹp, không tỳ vết.

6– Có da thịt mềm mại, hồng hào.

7– Có thân hình sạch sẽ, trong sáng.

8– Có tâm dũng cảm, không sợ hãi.

9– Có sức khỏe dồi dào.

10– Có giọng nói thanh tao, lời nói ngọt ngào, suôn sẻ.

11– Được mọi người quý mến.

12– Có bộ hạ tùy tùng, bạn bè đoàn kết gắn bó thương yêu nhau.

13– Thân tâm được an lạc tự tại, không hoảng sợ.

14– Không bị tai nạn do khí giới, thuốc độc….

15– Có trí tuệ sáng suốt.

16– Có nhiều bạn bè thân thiết.

17– Có thân hình đẹp đẽ, đáng quý mến.

18– Có các bộ phận lớn nhỏ trong thân thể cân đối đẹp đẽ.

19– Là người ít bệnh hoạn ốm đau.

20– Là người có tâm thường an lạc.

21– Là người thường được sống gần gũi với con cháu yêu quý.

22– Là người được trường thọ, sống lâu.

23– Không có một ai có thể mưu sát được.

Đó là 23 quả báu tốt của thiện nghiệp không sát sinh từ trong kiếp quá khứ.

Nguồn trích dẫn: Nền Tảng Phật Giáo – Quyển III. Hành Giới – Tỳ khưu Hộ Pháp

––––––––––––––––––––––––––––––

🍀 Hỏi: Sayadaw nghĩ sao về việc hồi hướng phước đến những người đã chết? Việc hồi hướng ấy có hiệu quả như thế nào?

Trả Lời: Trong Kinh Giáo Thọ Thi–Ca–La–Việt (Siṅgālovāda Sutta) của Trường Bộ (Dīgha Nikāya) có đề cập rằng con cái phải có bổn phận làm các việc công đức và hồi hướng đến cha mẹ đã quá vãng của mình.

Trong một bài Kinh thuộc Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) cũng có nói rằng mọi người, ngoại trừ vị A–la–hán, đều phải đi đến một trong năm sanh thú sau khi chết. Năm sanh thú đó là: thiên, nhân, ngạ quỷ, súc sanh, và Địa ngục thú. Trong số đó chỉ một loại ngạ quỷ duy nhất thuộc ngạ quỷ thú gọi là paradattūpajīvika–peta là có thể nhận được lợi ích từ việc chia phước hay hồi hướng phước của những người khác. ‘Paradattūpajīvika–peta’ có nghĩa là tha thí hoạt mạng ngạ quỷ, tức ngạ quỷ trông đợi sự nuôi mạng của nó từ việc chia phước của người khác.

Sau khi chết, nếu một người đi đến cõi trời (thiên thú) hay cõi người (nhân thú) họ hưởng được các dục lạc theo thiện nghiệp đã thành thục của họ. Nếu một người đi đến cõi súc sanh (súc sanh thú) hay Địa ngục (địa ngục thú) hay trở thành bất kỳ loại ngạ quỷ nào ngoại trừ Paradattūpajīvika–peta (tha thí hoạt mạng ngạ quỷ), họ phải chịu khổ theo nghiệp bất thiện đã chín mùi của họ. Trong trường hợp này, người ta không được lợi ích gì từ việc chia phước hay hồi hướng phước do thân bằng quyến thuộc hoặc bạn bè của họ trong kiếp trước làm. Tất nhiên những người làm việc phước ấy vẫn có được những lợi ích cho bản thân họ.

Ngạ quỷ paradattūpajīvika nhận được lợi ích từ việc chia phước của người khác theo một trong hai cách: một là hưởng lạc trong ngạ quỷ giới; hai là thoát khỏi ngạ quỷ giới. Họ sẽ được loại nào tùy thuộc vào nghiệp của họ và vào sức mạnh của việc phước. Tôi sẽ giải thích điều này bằng hai ví dụ.

Thuở xưa Nandaka là một vị tướng của Đức Vua Piṅgala. Ông chấp giữ tà kiến về sự đoạn diệt (đoạn kiến cho rằng chết là hết). Con gái ông tên Uttara, là một bậc Thánh Nhập Lưu. Sau khi ông qua đời, ông trở thành một Paradattūpajīvika–peta (tha thí hoạt mạng ngạ quỷ). Uttara cúng dường thực phẩm đến một vị Tỳ–kheo A–la–hán đang đi khất thực. Cô chia phước ấy đến Nandaka, người cha đã quá cố của mình. Nandaka lúc bấy giờ là một Paradattūpajīvika–peta, hoan hỷ với phước đó bằng cách nói lên lời ‘sādhu.’ Nhờ sức mạnh của tâm thiện này, ông hưởng được các dục lạc thù thắng như những dục lạc của cõi chư thiên trong sáu tháng. Tuy nhiên, sau sáu tháng ông lại tái sanh vào Địa Ngục do tà kiến của mình, sau khi chết ở ngạ quỷ giới.

Trường hợp khác là những quyến thuộc trong tiền kiếp của Đức Vua Bimbisāra (Tần–bà–sa–la). Thời Đức Phật Vipassī (Tỳ–bà–thi), họ là những người nấu ăn trong bếp của nhà vua. Họ có trách nhiệm sửa soạn vật thực cho Đức Phật Vipassī (Tỳ–bà–thi) và một trăm ngàn vị Tỳ–kheo. Tuy nhiên họ đã ăn những vật thực ấy trước khi dâng đến Đức Phật và chư Tỳ–kheo. Do nghiệp bất thiện này họ phải đi đến Địa Ngục sau khi chết. Sau một thời gian dài ở trong Điạ Ngục, họ thoát ra khỏi đó và trở thành Paradattūpajīvika–peta (tha thí hoạt mạng ngạ quỷ) trong ngạ quỷ giới.

Khi Đức Phật Kakusandha (Câu–lư–tôn Phật) xuất hiện trên thế gian, họ đi đến hỏi Đức Phật xem khi nào thì họ thoát khỏi kiếp ngạ quỷ. Đức Phật Kakusandha bảo họ hãy hỏi Đức Phật kế, Konāgama Buddha (Câu–na–hàm Phật). Họ đã phải chờ một thời gian dài cho đến khi Đức Phật Konāgama xuất hiện trên thế gian để hỏi ngài cũng câu hỏi ấy. Đức Phật Konāgama nói họ hãy hỏi Đức Phật kế, Đức Phật Kassapa (Ca–diếp). Một lần nữa họ phải chờ trong một thời gian lâu dài cho đến khi Đức Phật Kassapa xuất hiện trên thế gian và cũng hỏi cùng câu hỏi đó. Đức Phật Kassapa nói với họ rằng họ sẽ thoát khỏi ngạ quỷ giới trong thời kỳ của Đức Phật Goatam (Đức Phật hiện nay của chúng ta). Vì thế họ lại chờ cho đến khi Đức Phật Gotama xuất hiện trên thế gian trong một thời gian lâu dài khác.

Knowinh and Seeing. Pa Auk Sayādaw

TK Pháp Thông dịch

Bài Viết Liên Quan

  • Sát Sinh Cúng Đồ Ăn Cho Người Chết, Hoặc Dâng Lễ Tất Niên, Hoặc Làm Tế, Lễ, Giỗ, Tết, Cầu An, Giải Hạn Lợi Ích Gì?, Web, FB
  • Làm Gì Thay Thế Mê Tín Tế Lễ Cầu Siêu Cô Hồn Ngạ Quỉ Trong Dịp “Lễ Vu Lan Của Đạo Tầu”?, Web, FB
  • Hồi Hướng Phước Báu Tới Người Qúa Vãng, Web, FB
  • Hồi Hướng Công Đức Phước Báu Tới Thân Nhân Quá Vãng Như Thế Nào?, Web, FB
  • Cầu Siêu, Web, FB
  • Siêu Thoát Và Con Đường Đưa Tới Siêu Thoát, Web, FB
  • Cầu Xin, Cầu An, Cầu Siêu Hay Trì Giới:, Web, FB
  • Các Chúng Sinh Là Chủ Nhân Của Nghiệp Do Mình Tạo Ra, Web, FB
  • Người Có Chánh Kiến Nên Có Quan Kiến Vè Tháng Cô Hồn Như Thế Nào?, Web, FB
  • Video Tụng Kinh Cầu An – Chúc Phúc Nhân Dịp Năm Mới:, FB
  • Hộ Trì Người Sắp Ra Đi Như Thế Nào?, Web, FB
  • Thế Nào Là Tu Đúng Đạo Phật, Web, FB
  • Sàng Lọc Thông Tin Như Thế Nào?, Web, FB
  • Hâm Mộ Ngoại Đạo, Web, FB
  • Phật Nào? Pháp Nào? Tăng Nào? – Nương Tựa Nơi Đâu?, Web, FB
  • Giả Và Thật, Web, FB
  • Phân biệt Tà với Chánh, Web, FB
  • Chớ Lầm Đường Lạc Lối, Kẻo Hoài Phí Đời Người, Web, FB
  • Tám Đặc Tính Nhận Biết Pháp Và Luật Thật Sự Do Đức Phật Gotama Truyền Dạy, Web, FB
  • Phật Pháp Dành Cho Ai, Web, FB
  • Chánh Pháp Toàn Hảo, Web, FB
  • 4 Sự Thuyết Giáo Chánh Pháp, Được Thế Tôn, Bậc Tri Giả, Kiến Giả, Bậc A-La-Hán, Chánh Ðẳng Giác Giảng Dạy Là Gì?, Web, FB
  • 9 Ân Đức Phật, 6 Ân Đức Pháp, 9 Ân Đức Tăng, Web, FB
  • 969 Ân Đức Tam Bảo & Giới Thanh Tịnh, Web, FB
  • Phật Pháp, Phật Giáo, Đạo Phật Là Gì?, Web, FB
  • Trả Lời Ngoại Đạo, Web, FB
  • Tại Sao Không Có Hai Đức Phật Xuất Hiện Một Lần?, Web, FB
  • Vì Sao Có Kẻ Ác Lại Gặp Điều Thiện Lành? Vì Sao Có Người Thiện Lại Gặp Điều Ác Dữ?, Web, FB
  • Công Bằng Có Không? Công Bằng Ở Đâu?, Web, FB
  • Nhân & Quả – Cái Chết Của Đệ Nhất Thần Thông Ðại Mục-Kiền-Liên, Web, FB
  • Không Chỗ Nào Trên Đời, Trốn Được Quả Ác Nghiệp., Web, FB
  • Sám Hối Như Thế Nào? Để Làm Gì, Web, FB
  • Sám Hối – Tha Thứ – Rải Tâm Từ – Phát Nguyện – Hồi Hướng Công Đức:, Web, FB
  • Sám Hối Như Thế Nào? Để Làm Gì, Web, FB
  • Sát Sinh, Web, FB
  • Các Chi Phần Của Ngũ Giới Và Bát Quan Trai Giới, Web, FB
  • Ăn Chay Là Tu, Web, FB
  • Cá Và Thịt Có Được Phép Thọ Dụng Không?Ba Điều Tuyệt Đối Thanh Tịnh Là Gì?Mười Loại Thịt Không Được Phép Thọ Dụng Là Gì?, Web, FB
  • 4 Loại Thức Ăn Đưa Đến Tồn Tại Và Chấp Thủ Tái Sinh Cho Các Loại Hữu Tình Là Gì? Chúng Cần Phải Được Nhận Xét Như Thế Nào?, Web, FB
  • Quả Báu Đại Thiện Nghiệp Trì Ngũ Giới, Web, FB
  • Phước – Tuệ Đồng Tu, Web, FB
  • Ngày Đầu Năm Mới Canh Tý Tốt Lành, Web, FB
  • Ý nghĩa Quy Y Tam Bảo là gì, Web, FB
  • Thọ Trì Tam Quy và Ngũ Giới, Web, FB
  • Phó Thác Sinh Mạng Như Thế Nào, Web, FB
  • Bố Thí Cúng Dường Tại Gia, Web, FB
  • Danh Mục Các Bài Viết Quan Trọng, Web, FB

Audio – Video Bài Giảng – Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala – Thiền Viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar.

  • Yếu Pháp Tu Tập Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Youtube
  • Thiền Minh Sát Vipassana Lý Thuyết Và Thực Hành, Youtube
  • Giới Và Luật Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Youtube