Bài 3: Sanditthiko: Tự Mình Thấy Biết

[lwptoc]

PHẦN 3: SANDITTHIKO: TỰ MÌNH THẤY BIẾT

Đại Trưởng Lão Thiền sư Ta-ma-nê-chô (Tharmanaykyaw Sayadaw Ashin Dhammikabivamsa – Agga mahā ganthavācaka paṇḍita) – Pháp thoại dành cho thiền sinh thực hành thiền Minh Sát Vipassana Tứ Niệm Xứ theo truyền thống Mahasi Sayadaw.

🍀 Audio (Việt dịch: Đạo Hữu Sơn Từ) youtu.be

🍀 Text (Chuyển đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên) FB

Nhân dịp này Sư muốn giảng cho chúng ta nghe thêm ba điều nữa đáng để chúng ta chú ý đến, dựa trên những lời dạy của Ngài Mahasi Sayadaw, mà sư nghĩ là sẽ lợi lạc cho thực tập của chúng ta:

1 – Pháp không phải là cái mà chúng ta chấp nhận vì nghe người khác nói nhưng là cái mà chúng ta thực tập. Nếu chúng ta thực tập nó thì chúng ta kinh nghiệm nó.

2 – Đối với những ai thực tập giáo pháp và sau khi kinh nghiệm được giáo pháp cho chính họ thì họ sẽ được giải thoát khỏi luân hồi. Đối với những ai không thực tập, thì dù cho Đức Phật cũng không làm gì được. Đức Phật cũng không thể nào giúp họ kinh nghiệm được giáo pháp và giúp học được giải thoát.

3 – Khi quan sát những hoạt động của thân như sự phồng xẹp của bụng, hay đang ngồi v.v., thì cái tâm đi đó đây có thể sanh khởi. Chúng ta không thể nào ngăn cản điều này không cho nó xảy ra được. Nhưng chúng ta cần phải biết các hoạt động của tâm này một cách đúng đắn mỗi khi nó sanh khởi.

CÂU HỎI 1: Sanditthiko có nghĩa là gì?

Sanditthiko có nghĩa là Pháp (Đạo, Quả, Niết bàn) mà ta có thể kinh nghiệm được. Một người có thể kinh nghiệm được Pháp nếu người ấy thực tập nó.

Chúng ta hứng khởi hành thiền thực tập vun bồi Pháp không phải chỉ vì Đức Phật dạy Pháp này mà bởi vì chính chúng ta có thể kinh nghiệm được nó.

Chẳng hạn như bất cứ ai đều có thể biết được vị của muối, của đường qua kinh nghiệm nếu người đó bỏ muối hoặc đường vào lưỡi của họ.

Cũng tương tự như vậy, bất cứ ai cũng tự mình kinh nghiệm giáo pháo nếu người ấy thực tập nó. Giáo pháp không bao giờ thiên vị đối với riêng ai cả.

CÂU HỎI 2: Làm sao một người có thể kinh nghiệm được giáo pháp?

Một người có thể kinh nghiệm được giáo pháp chỉ có thể khi nào người đó thực tập giáo pháp đó một cách thận trọng, một cách có phương pháp.

Một số thiền sinh có sự hiểu biết qua sách vở, hành thiền một cách cẩu thả không có cẩn thận. Do đó người ấy tiến bộ rất ít hoặc không tiến bộ gì cả trong sự hành thiền của mình.

Một số thiền sinh khác thì lại không có sự hiểu biết về sách vở nhưng mà họ có sự tiến bộ đáng kể vì triệt để làm theo những lời hướng dẫn của vị thầy.

Như vậy mình có thể tự hỏi tại sao có những thiền sinh không hiểu biết gì qua sách vở cả lại có thể tiến bộ mà người hiểu biết thì lại không.

Chẳng hạn như khi chúng ta bị bệnh và người bác sĩ của chúng ta kê toa thuốc cho ta, sau đó mình phải uống thuốc như đã được kê trong toa, và nhờ vậy mình mới có thể hết bệnh được. Nếu mình không làm như vậy thì mình sẽ không hết bệnh được.

Cũng tương tự như vậy, một người có thể kinh nghiệm được giáo pháp chỉ khi nào người ấy thực tập nó. Giáo pháp không phải là cái mà mình chấp nhận qua lời nói của người khác. Nhưng là cái mà mình có thể đạt được qua sự thực tập. Nếu chúng ta thực tập pháp thì chúng ta có thể kinh nghiệm được nó.

CÂU HỎI 3: Khi nào chúng ta có thể nhận rõ được các hiện tượng danh sắc, các hiện tượng mà chúng ta chưa từng biết đến trước đây?

Sự hành thiền tỉnh giác chứng minh điều này là đúng. Khi chúng ta phát triển sự tỉnh giác một cách liên tục thì chúng ta có thể nhận thấy rõ ràng hiện tượng danh sắc mà chúng ta chưa bao giờ biết đến.

Chúng ta sẽ thấy qua kinh nghiệm của chính chúng ta là chỉ sẽ có hai loại hiện tượng mà thôi, đó là hiện tượng về danh và về sắc, hay là thân và tâm.

Và sau đó mỗi khi chúng ta biết đến nó một cách song hành thì chúng ta thấy nó sanh và nó diệt ngay lập tức.

Nếu chúng ta không thấy điều này thì có nghĩa là chúng ta hành thiền không có đúng.

Nếu mà chúng ta hành thiền đúng thì chắc chắn là chúng ta sẽ thấy như vậy.

Do đó pháp được ngưỡng mộ, được tôn kính là pháp có thể kinh nghiệm được qua sự thực tập đúng đắn.

CÂU HỎI 4: Lời dạy của Đức Phật khác những tôn giáo khác như thế nào?

Một vài tôn giáo đòi hỏi chúng ta phải tin tưởng vào Thượng Đế một cách mù quáng.

Một số tôn giáo còn có tính các đe doạ. Họ có thể dạy giáo đồ của họ là phải tin tưởng vào Thượng Đế nếu không là sẽ bị đày xuống địa ngục.

Do đó mà họ không có dám nghi ngờ vì họ sợ bị đày xuống địa ngục.

Và lời dạy của Đức Phật thì không phải như vậy.

Nếu một người hành thiền giáo pháp thì người đó sẽ kinh nghiệm nó.

Chính chúng ta sẽ thấy điều này là đúng hay sai, tốt hay xấu, có lợi hay là không có lợi.

Giáo pháp của Đức Phật thật công bằng và dễ gần gũi.

Và giáo pháp này bao gồm đạo, quả, và niết bàn mà đã được chứng đạt bởi các thánh nhân như Đức Phật, các bậc Alahan và các bậc đã giác ngộ.

CÂU HỎI 5: Làm sao giáo pháp có thể sanh khởi trong một người thực tập nó?

Giáo pháp ở đây có nghĩa là đạo, quả và niết bàn.

Giáo pháp này có thể sanh khởi trong bất cứ ai thực tập nó. Nó không phải là một cái gì mà chúng ta học thuộc lòng, không phải là một cái gì mà chúng ta giữ ở kệ sách, hay là đặt trên cái bàn thờ trong một ngôi chùa rộng lớn.

Pháp là một cái mà nó sanh khởi ở trong ta khi chúng ta thực tập nó và không có gì khác nữa.

Các sách để ở trên kệ sách chỉ là những hồ sơ, những tài liệu về sự hướng dẫn. Nó chỉ cho phương pháp làm thế nào để thực tập.

Nếu một người thực tập về giới Sila thì giới sẽ có ở trong người đó.

Nếu một người thực tập về sự định tâm, thì sự định tâm sẽ sanh khởi ở trong người đó.

Nếu mà một người phát triển tỉnh giác thì tuệ minh sát sẽ sanh khởi ở trong người đó.

Khi mà sự phát triển về sự tỉnh giác của chúng ta đã đạt đến sự cực điểm, đến đạo quả, sự giác ngộ của đạo quả, thì đạo và quả sẽ sanh khởi trong chúng ta.

Và bằng cách này chúng ta kinh nghiệm được Niết Bàn là sự an tịnh tuyệt nhất. Đây là điểm đến của cuộc hành trình tâm linh của ta.

Chúng ta hãy quán tưởng đến phẩm tính này của pháp. Phẩm tính cho thấy đặc điểm của các bậc thánh nhân. Chúng ta có thể đạt được nó nếu chúng ta thực tập nó.

Vậy Sanditthiko có nghĩa là Pháp (Đạo, Quả, Niết bàn) mà một người có thể thật sự kinh nghiệm được nếu người ấy thực tập nó.

Thật là hứng khởi để mà cho chúng ta quán tưởng đến phẩm tính này của pháp. Và khi mà chúng ta quán tưởng như vậy thì chúng ta cảm thấy rất là vui và mừng, và chúng ta có thể nghĩ thầm rằng cảm ơn đến ba la mật mà ta đã huân tập được trong những kiếp trước và bây giờ mình có cơ hội thật là quý báu để thực hành thiền vun bồi Pháp.

CÂU HỎI 6: Làm sao mà phẩm tính Sanditthiko (có nghĩa là Pháp chắc chắn có thể kinh nghiệm được khi một người thực tập nó) có thể biểu lộ một cách rõ ràng?

Đức Phật dạy là Pháp sẽ được hoàn thành với phẩm tính gọi là Sanditthiko.

Sanditthiko có nghĩa là Pháp cao thượng mà chắc chắn có thể kinh nghiệm được đối với nhứng ai thực tập nó.

Các chư tăng chỉ có dạy Pháp này để cho những người học có thể kinh nghiệm được và tự hiểu nếu người đó thực tập nó.

Những gì chư tăng dạy chỉ là phương pháp để thực tập mà thôi. Những ai mà có niềm tin nơi Pháp và thực tập nó thì sẽ kinh nghiệm được và họ sẽ hiểu được qua sự kinh nghiệm của chính họ là chỉ có các hiện tượng danh và sắc là hiện hữu mà thôi. Chỉ có những pháp vô thường, bất toại nguyện, và vô ngã là thật là hiện hữu mà thôi.

Khi hiểu như thế thì phẩm tính Sanditthiko, tức là phẩm tính Pháp có thể kinh nghiệm được bởi những ai thực tập nó, được biểu lộ một cách rõ ràng.

Nói tóm lại Sanditthiko có nghĩa là Pháp cao thượng mà có thể kinh nghiệm được một cách chắc chắn bởi những ai thực tập nó.

CÂU HỎI 7: Làm sao mà một người có thể kinh nghiệm được Pháp?

Nếu một người thực hành thiền vun bồi Pháp thì họ sẽ kinh nghiệm được Pháp đó. Nếu một người không thực tập thì người đó không kinh nghiệm được gì cả. Nếu một người không có thực tập và không có kinh nghiệm được gì cả thì người đó đâu có được lợi lạc gì. Chỉ khi nào chúng ta hành thiền thì chúng ta mới kinh nghiệm được Pháp.

Nếu các thiền sinh đã đến hành thiền nơi trường thiền này và thực tập một cách đúng đắn theo như lời hướng dẫn của các vị thầy thì những vị đó sẽ hiểu Pháp qua cái kinh nghiệm của chính họ. Mặc dầu mặc số người nói là họ đến những trường thiền để thực tập, nhưng nếu họ không thực tập đúng đắn họ sẽ không hiểu được Pháp.

Có một số người họ không hành thiền đúng đắn cho nên họ không có kinh nghiệm được gì trong sự thực tập của họ. Và họ nghĩ sai lầm rằng những người khác cũng như vậy. Và họ nói những điều không có thích nghi. Những người này họ đã không kinh nghiệm được gì bởi vì họ đã không thực tập một cách đúng đắn. Không có cách gì mà họ có thể đạt được giáo pháp vì không kinh nghiệm gì cả là kết quả của sự thực tập không đúng.

CÂU HỎI 8: Đức Phật đã dạy gì đối với sự thực tập?

Chính Đức Phật đã dạy như thế này: Một người phải thực tập hành thiền với sự cố gắng tối thượng. Đức Phật, các vị Phật chỉ hướng dẫn con đường mà thôi.

Những ai hành thiền thì họ sẽ được thoát khỏi gông xiềng của phiền não, họ sẽ thoát khỏi nhà giam của luân hồi.

Đối với những ai hành thiền, sau khi họ đã chứng nghiệm được giáo pháp cho chính họ thì họ sẽ được giải thoát khỏi luân hồi. Những ai không có hành thiền thì dù cho Đức Phật cũng không thể làm gì được để giúp họ có thể kinh nghiệm được giáo pháp, có thể giúp họ được giải thoát.

CÂU HỎI 9: Làm sao để tuệ về danh sắc sanh khởi?

Khi một người hành thiền thành thạo thì người đó phải biết ghi nhận ba phần của một sự dở chân. Chẳng hạn như người đó sẽ ghi nhận có: dở , bước, đạp.

Khi sự định tâm của người đó trở nên mạnh mẽ hơn thì người đó biết rõ ràng là cái sự dở chân và cái biết của sự dở chân đó. Sự đi tới là cái bước và cái biết của cái bước đó. Cái sự đạp và cái biết của sự đạp đó. Đây là tuệ minh sát biết được, phân biệt được giữa danh và sắc.

CÂU HỎI 10: Làm sao mà các thiền sinh có thể biết được tác ý là muốn di chuyển?

Khi mà sự định tâm trở nên mạnh mẽ hơn nữa, thì thiền sinh biết được ý định muốn đi hay ý định muốn di chuyển.

Người đó biết như là được giảng trước đây:

gacchanto vā ‘gacchāmī’ti pajānāti

nghĩa là một người biết là tôi đang đi khi mà đang đi

cũng như là lời giảng trong chú giải.

Đây không phải là cái sự hiểu biết qua sách vở hay sự hiểu biết qua suy nghĩ. Người đó sẽ hiểu qua cái kinh nghiệm của chính họ vì cái sự thực tập. Người bình thường sẽ không hiểu như thế này.

Nếu quý không tin thì quý vị hãy thử xem, chẳng hạn như quý vị thử di chuyển ngón tay trỏ của quý vị. Quý vị có thấy được tác ý, ý muốn là muốn di chuyển nó hay không. Quý vị biết là có ý định muốn di chuyển đó. Nhưng quý vị không biết được khi nào hay là làm sao mà tác ý này hay ý định này nó sanh khởi. Quý vị thử cúi đầu hay là ngẩng đầu lên xem. Quý vị biết là quý vị cúi đầu hay ngẩng đầu là do có ý định. Nhưng quý vị không biết là khi nào hay làm sao ý định này sanh khởi.

CÂU HỎI 11: Người thiền sinh biết gì sau khi mà đã quán sát một cách liên tục?

Khi một người thiền sinh hành thiền đã quát sát một cách liên tục, người đó biết được một cách chắc chắn rằng khi mình di chuyển thì tác ý để di chuyển đó nó sanh khởi trước.

Do đó mà người đó sẽ kinh nghiệm được và biết được với sự hiểu biết của chính mình rằng tác ý nó sanh khởi trước.

Bởi vì có các tác ý này mà sự căng cứng và sự chuyển động sanh khởi, đây là yếu tố gió. Hơn nữa một người biết, sau khi yếu tố gió này lan ra khắp thân của người đó và nó đẩy người đó đi đến cái hướng mà người đó muốn đi, thì sự di chuyển tới hay là lui sanh khởi.

CÂU HỎI 12: Làm sao một người thiền sinh biết được sự vô thường và không có cái tôi hay là cái ta?

Khi người thiền sinh hành thiền và sự định tâm trở nên mạnh mẽ hơn nữa thì người đó sẽ thấy sự đẩy và những cái động tác biến mất trước khi người đó tới cái điểm. Do đó người đó biết là vô thường. Và người đó thấy là không có cái tôi hay là cái ta mà nó được đi tới hay là đi lui. Người đó sẽ hiểu rằng và xác nhận với chính sự kinh nghiệm của họ rằng bởi vì có ý định muốn đi hay muốn di chuyển và chỉ có những hiện tượng rời rạc, những sự di chuyển rời rạc sanh khởi từng phần một cái này theo sau cái kia mà thôi.

CÂU HỎI 13: Trước khi một người biết về tuệ danh sắc thì người đó nghĩ cái gì?

Trước khi một người biết được tuệ này thì người đó sẽ suy nghĩ như người bình thường: Tôi đi bởi vì tôi muốn đi, tôi đứng bởi vì tôi muốn đứng, tôi ngồi bởi vì tôi muốn ngồi, tôi co tay bởi vì tôi muốn co tay, tôi duỗi tay bởi vì tôi muốn duỗi tay.

Ý định muốn đi là tôi, cái sự đi cũng là tôi. Ý định muốn đứng là tôi, cái sự đứng cũng là tôi. Cái ý định muốn ngồi là tôi, cái sự ngồi cũng là tôi. Cái ý muốn co tay hay sự duỗi tay là tôi, và cái sự co tay hay duỗi tay cũng là tôi. Và lúc nào cũng chỉ có một người, một bản ngã.

CÂU HỎI 14: Một người thiền sinh sẽ hiểu biết gì các động tác của thân đang sanh khởi?

Một người thường nghĩ là tôi hiện hữu một cách đều đặn, một cách thường còn.

Một người đạt đến tuệ minh sát nhờ người đó quán chiếu, quán sát một cách liên tục tất cả động tác của thân khi nó sanh khởi. Bằng cách quán sát những tác ý muốn đi và những hiện tượng về thân của sự đi mà người đó sẽ thấy một cách rõ ràng qua sự kinh nghiệm của chính họ là: những hiện tượng của thân và tâm này nó sanh và nó diệt một cách nhanh chóng.

CÂU HỎI 15: Làm sao một người thực tập quán tâm (citta vipassana)?

Khi một người đang quán những động tác của thân như sự phồng xẹp của bụng hay ngồi … v.v… thì sự phóng tâm có thể xảy ra.

Và người thiền sinh không thể nào ngăn chặn sự việc này nó xảy ra cả, dù người đó đã vào trường thiền và bắt đầu hành thiền.

Cái tâm của người đó có thể đi đến những nơi nào mà nó muốn. Nó có thể đến thăm người hàng xóm, hay có thể đến thăm người này hay người kia. Nếu cái tâm bay đi đó đây thì người đó phải ghi nhận. Người đó phải ghi nhận mỗi lần nó sanh khởi.

Chẳng hạn như nếu tâm người đó tính toán thì người đó phải ghi nhận là tính toán. Nếu cái tâm phóng ra ngoài, thì người đó phải ghi nhận là phóng tâm. Nếu người đó tưởng tượng người đó đi một nơi nào đó, đến một nơi nào đó thì người đó phải ghi nhận là đến. Nếu người đó tưởng tượng đi gặp ai đó thì người đó phải ghi nhận là gặp. Nếu người đó muốn một điều gì thì người đó phải ghi nhận là đang muốn, muốn. Nếu mà người đó đang giận giữ một điều gì thì người đó phải ghi nhận là giận dữ, giận dữ.

Đó là cách quán tâm.

CÂU HỎI 16: Việc gì xảy ra lúc đầu của sự thực tập quán tâm?

Một người chỉ cần phải ghi nhận và quán sát mỗi khi sự phóng tâm sanh khởi. Và khi thực tập hay quán sát như thế thì người đó sẽ hiểu một cách đúng đắn về bản chất thật sự của những hoạt động của tâm.

Lúc ban đầu của sự thực tập này người thiền sinh có thể không biết là tâm của mình nó phóng đi đây đi đó. Và người thiền sinh chỉ có thể biết sự phóng tâm này sau khi nó đã xảy ra. Khi người đó thấy như vậy, người đó phải ghi nhận quán sát sự phóng tâm. Khi quán sát thì sự suy nghĩ đó sẽ không tiếp tục nữa, nó bị ngừng ngay lập tức. Và sau khi mà nó ngừng, người đó có thể trở lại và theo dõi sự phồng xẹp của bụng.

CÂU HỎI 17: Cittānupassanā – thường xuyên quán sát tâm là gì?

Khi một người hành thiền chánh niệm và sự định tâm của họ mạnh mẽ hơn, họ quán sát sự phồng xẹp của bụng và nếu sự phóng tâm sanh khởi thì người đó có thể nhận biết được ngay lập tức và ghi nhận nó.

Sau này khi một người niệm tâm khi nó vừa mới có ý định phóng ra ngoài, người đó niệm ngay, thì phóng tâm này không xảy ra nữa, mà nó ngừng ngay lập tức. Và tiếp theo sau đó thì người đó trở lại và quán sát sự phồng xẹp của bụng.

Khi mà một người quán sát hoạt động của tâm như vậy, mỗi khi mà nó sanh khởi. Cái sự thực tập đó gọi là Cittānupassanā hay là sự chánh niệm về tâm.

Do đó có một câu mà chúng ta được dạy là một người phải biết tất cả những hoạt động của tâm một cách đúng đắn mỗi khi mà nó sanh khởi.

CÂU HỎI 18: Mười sáu loại tâm khác nhau là gì?

Ở trong bài kinh Pali Cittānupassanā (Kinh niệm xứ): Đức Phật có dạy rằng

sarāgaṃ vā cittaṃ ‘sarāgaṃ citta’nti pajānāti

Có nghĩa là một người biết được cái tâm nó sanh khởi với sự ham muốn, là cái tâm mà nó đi kèm theo sự ham muốn thì biết rõ được như vậy.

Đức Phật giảng là có mười sáu loại tâm:

1 – Một người phải biết được cái tâm sanh khởi với tham ái.

2 – Một người phải biết được cái tâm sanh khởi không có đi kèm theo với tham ái.

3-4 – Một người phải biết được cái tâm có sự sân hận và không có sự sân hận.

5-6 – Một người phải biết được cái tâm có sự si mê và không có sự si mê.

7-8 – Một người phải biết được cái tâm có sự buồn ngủ lười biếng và cái tâm có sự trạo cử

9-10 – Một người phải biết được cái tâm có thiền-na cao quý và không có thiền-na. Đây là phương pháp thấy được dành cho người hành thiền đắc được jhana (thiền-na).

11-12 – Một người phải biết được cái tâm thấp (sauttaraṃ ~có thể cao hơn ~ không thể cao hơn) và tâm cao (‘anuttaraṃ) (hành cho người hành thiền). Cũng chỉ dành cho ai hành thiền mà đắc được thiền-na.

13-14 – Một người phải biết được cái tâm an tịnh và tâm tán loạn.

15-16 – Một người phải biết được cái tâm không có sự phiền não trong khi hành thiền và tâm không thoát sự phiền não khi đang hành thiền.

Vì thời gian giới hạn Ngài thiền sư sẽ dừng bài pháp thoại tại đây. Trước khi chấm dứt, ngài muốn nhắc lại ba điều chúng ta cần nên biết mà ngài nói trước đây:

1 – Pháp không phải là cái mà chúng ta chấp nhận vì nghe người khác nói nhưng là cái mà chúng ta thực tập. Nếu mà chúng ta thực tập nó thì chúng ta kinh nghiệm nó.

2 – Đối với những ai thực tập giáo pháp và sau khi kinh nghiệm được giáo pháp cho chính họ thì họ sẽ được giải thoát khỏi luân hồi. Đối với những ai không thực tập, thì dù cho Đức Phật cũng không làm gì được. Đức Phật cũng không thể nào giúp họ kinh nghiệm được giáo pháp và giúp học được giải thoát.

3 – Khi quan sát những hoạt động của thân như sự phồng xẹp của bụng, hay đang ngồi … v.v… thì cái tâm đi đó đây có thể sanh khởi. Chúng ta không thể nào ngăn cản điều này không cho nó xảy ra được. Nhưng chúng ta cần phải biết các hoạt động của tâm này một cách đúng đắn mỗi khi nó sanh khởi.

Và Sư cầu chúc rằng tất cả các quý thiền sinh được an vui, được thoát khỏi tất cả những sự nguy hiểm, khỏi tất cả những sự khổ đau, khỏi tất cả những bệnh tật và mau chóng đạt được niết bàn.

Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Audio (Việt dịch: Đạo Hữu Sơn Từ)

PHÁP THOẠI TRỰC TUYẾN ONLINE 2021

Đại Trưởng Lão Thiền Sư Tharmanaykyaw,

Yangon, Myanmar

Pháp Thoại Dành Cho Thiền Sinh Thực Hành Thiền Minh Sát Vipassana Tứ Niệm Xứ Theo Truyền Thống Mahasi Sayadaw., Archive, Web Link

Phần 1: Thực Hành Thiền Minh Sát Tứ Niệm Xứ Quan Trọng Như Thế Nào?, 19/12/2020,, Web, Youtube

Text (Chuyển Đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên), Web Link, FB, FB

Phần 2: Opanayiko – Hướng Thượng (Tới Nibbāna), 23/01/2021, Web, Youtube

Text (Chuyển Đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên), Web,

Phần 3: Sanditthiko: Tự Mình Thấy Biết, 20/2/2021, Web, Youtube

Text (Chuyển Đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên), FB, Web

Phần 4: Akaliko – Ehipasiko: Ngay Tức Thì – Đến Để Thấy, 20/3/2021, Web, Youtube, Web Link

Text (Chuyển Đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên), FB, Web Link,Web

Phần 5: Paccattam Veditabbo: Cần Tự Mình Liễu Ngộ, 24/4/2021, Web, Youtube

Phần 6: Sotapatti Magga: Những Đặc Tính Của Tu-Đà-Hoàn Đạo, P1, 23/5/2021

Việt Dịch, Youtube

Bản Gốc Anh-Việt. Youtube

Translation Of 6. Dhamma Talk In 5 Languages As Follows:

1. Bahasa Indonesia, Youtube

2. Myanmar Language, Youtube

3. Chinese Language, Youtube

4. Thai Language, Youtube

5. Vietnamese Language, Youtube

Bài 7: Sotapatti Magga: Những Đặc Tính Của Tu-Đà-Hoàn Đạo, P2, 20/6/2021

Việt Dịch. Youtube

Bản Gốc Anh – Việt , Youtube

ĐÔI NÉT VỀ THIỀN SƯ TA-MA-NÊ-CHÔ

Thiền Sư Ta-ma-nê-chô (Tharmanaykyaw Sayadaw Ashin Dhammikabhivamsa) sinh ngày 28/07/1956 và trở thành sa-di năm 11 tuổi. Đến năm 20 tuổi ngài trở thành tỳ-kheo với thầy tế độ của mình là Đại sư Ma-ha Gan-day-on (Maha Gandhayon Sayadaw U Janakabhivamsa). Ngài đã nhận được học vị Ta-ma-nay-chô (Tharmanaykyaw), học vị Pháp sư (Dhammacariya), học vị Abhivamsa, những học vị được kính trọng nhất, cao nhất trong hệ thống học vị của Phật giáo Theravada Myanmar, cũng như đã vượt qua kỳ thi Sakyasiha.

Năm 2018 Ngài được chính phủ Myanmar trao tặng danh hiệu cao quí Aggamahāganthavācakapaṇḍita – The foremost great wise in teachings/reciting Pāli Canon) – Bậc Đại Trí Giả Tối Thắng trong truyền dạy Pāli Canon – Phật ngôn chánh tạng.

Ngài đã ở Trung tâm thiền Mahasi 8 năm, sau đó đã cùng Thiền sư Panditamrama Sayadaw (Ngài Ashin Panditabhivamsa) chuyển tới trung tâm thiền quốc tế Panditarama, hướng dẫn, giảng dạy cho các thiền sinh quốc tế hơn 15 năm tại đây.

Từ năm 2006, ngài trở thành Viện trưởng Thiền viện Ta-ma-nay-chô Ma-ha-gan-day-ôn (Thamrmanaykyaw Mahagandhayon Monastery) tại Mawbi, Yagoon.

Ngài hướng dẫn thiền sinh thiền vipassanā, dạy Vinaya Pāḷi (Tạng Luật) cho các vị tỳ-kheo, mở khóa tu huấn luyện sa-di, tu nữ, trẻ em; phụng sự cho sự hoăng dương Giáo pháp của Đức Phật, và đã viết hơn 100 cuốn sách giảng dạy những điều cốt tủy của Phật giáo Theravada.

Ngài đã được thỉnh mời giảng dạy các khóa học, và hướng dẫn các khoá thiền tại Hoa kỳ, Thái lan, Đài loan, … và Việt nam 4/2016 – tại thiền viện Phước Sơn Đồng nai, tại Nha Trang, và tại Tòa nhà NEM 545 Nguyễn Văn Cừ, Hà nội.

 

How Important Is It to Practice Satipaṭṭhāna Vipassanā Meditation (Part – 2)?

As a continuation from the last Dhamma Talk on February 21, 2021, today (on March 21, 2021) I am going to continue to explain the importance of practicing Satipaṭṭhāna vipassanā meditation, based on the writings of the Venerable Mahasi Sayadaw.

I also would like to share three more things that are especially noteworthy from Mahasi Sayadaw that I think will be beneficial to your practice:

1. Practice Satipaṭṭhāna vipassanā meditation now. If one practices now, one gains the benefits right now.

2. There are many people, having been abandoned by doctors saying: “There is no longer any treatment left, there is only death,” who have recovered even from these serious diseases when they practiced meditation.

3. Whatever objects that arise that are not included in bodily actions, mental activity, or feelings are called “dhamma objects.”

1. What Is the Meaning of Akālika?

Akāliko – The Dhamma that is able to give results immediately, without any delay. Some people say that only after death in the future existence, God will save one. One is not able to experience or know this in the present life. One doesn’t know yet if one will be saved or not. Saving someone after death is quite an easy task. It is difficult to say what will happen after death. No one is able to say what is wrong or right. The Buddha did not teach in this way. Akāliko – giving results immediately, without any delay. If one practices now, one gains the benefits now.

2. In What Sense Is the Dhamma Honored as Akālika?

The real benefits gained are: if one attains ariya magga, the noble path, then one immediately gains ariya phala, noble fruition. If one also practices other Dhammas now, one gains the benefits now as well. If one practices sīla, morality now, one gains the benefits related to morality now. Due to the practice of morality, when morality is pure, one gains cleanliness and purity of mind as well as joy and happiness. There is nothing blameworthy, and one is being fulfilled with praiseworthy qualities. This is a benefit that one gains. If one practices samādhi, concentration, the mind does not scatter, and becomes refined at once, and one gains calmness. One gains mental happiness. The more one practices concentration, the more one gains the chance for peace.

If one also practices vipassanā meditation, one will know physical and mental phenomena and their arising and passing away immediately in the present. If one really practices, or one really knows it. One knows right now. One knows anicca, dukkha and anatta right now. Furthermore, if one really practices, when the practice is complete, one will come to know nibbāna where physical and mental aggregates cease. It does not happen in future existences. Therefore, it is a noble Dhamma that can give benefits immediately, without any delay.

3. How Can the Quality of Dhamma – Akālika Encourage You?

Practice now. If one practices now, one gains the benefits right now. It is extremely encouraging. The dhamma that we practice is one that will give results immediately, we can gain results immediately with this Dhamma. It is a Dhamma that leads one to immediately experience and understand physical and mental phenomena, impermanence, unsatisfactoriness and non-self. It is a Dhamma that will lead one to attain nibbāna within this current time of practice. If one keeps in mind that: “I am practicing a Dhamma that will give results immediately,” then one’s mind will be encouraged, and rapture pīti can arise. It is extremely good.

4. What Is the Meaning of “Ehi-passiko”?

Ehi – Come; Passa – Look and see. “Ehipassiko” means Dhamma that is worthy of inviting one to “come and see”. When one gets good food and drinks, whether they are tasty sweets or fruits, one can offer them to friends. One urges them: “Come and have a taste, it’s really good.” When one gets good nutrition, one is grateful to the person who has encouraged one.

5. Why Is the Dhamma Worthy of the Invitation: “Come and See”?

If one urges someone to practice the good Dhamma, the person who practices, having experienced the excellent flavor of the good Dhamma, is grateful. Now, after we have taught meditation practice, the people who have come here to practice meditation are quite grateful. They are grateful to those who teach. They are also grateful to the people who have urged and encouraged them step by step. After practicing, some people said that at first, they were not interested in the Dhamma. They practiced after someone urged them to do so. If not, they would have failed to experience this Dhamma. Some people say that they are extremely grateful. They are grateful to the people who encouraged them. Ehipassiko – the Dhamma that is worthy of urging one to “Come and see.” Because it is extremely good, this dhamma is worthy of inviting one to come and practice and experience for oneself. These are the Dhammas of magga, phala, and nibbāna that the Buddha taught.

The Buddha’s Dhamma is one that is worthy of urging one to come and see, to practice and experience for oneself. It is a Dhamma which, if one practices because of being encouraged to do so, one will be joyful and happy after gaining the benefits. If one keeps in mind that: “I am practicing this Dhamma,” then one’s mind will be encouraged, it will be good for the enlightenment factor of rapture, pīti sambojjhanga to arise.

6. How Does Faith In the Practice Arise?

It is ehipassiko – a Dhamma that is worthy of urging and inviting one to “Come and see, practice and see.” When others practice because of being urged to “Practice and see,” if the results do not arise for some time, then it would not be acceptable. It is acceptable only if the benefits arise in a short time or immediately. One would be grateful to the person who encouraged one. For example, if a person who is sick took a certain medicine because someone else said: “Try this medicine,” and the disease was not cured immediately, then the sick person would not have faith in that medicine or the person who recommended it. If after taking the medicine, one gained relief and the disease was cured in a day or a night, then one would have faith in the medicine. One would be grateful to the person who recommended the medicine and urged one to take it.

This medicine would be worthy of urging one to “Try and see.” Similarly, the Buddha’s Dhamma is also ehipassiko – a Dhamma that is worthy of urging and inviting one to “Come and see, practice and see.” If one really practices according to the invitation and exhortation, one can experience the benefits of freedom from craving and other mental defilements in the present existence. After experiencing the Dhamma in this way, one will be very grateful to the person who urged one to practice.

7. How Should One Practice Vedanānupassanā?

After sitting down and meditating for a long time, unpleasant feelings such as stiffness and pain, etc., can arise. At this time, one must observe the feelings that are obvious. If there is stiffness, one must concentrate one’s attention on the place where it is stiff, and note and observe it with satipaṭṭhāna as “stiff, stiff.” If there is heat, one must note it as “heat, heat.” If there is pain, one must note it as “pain, pain.” In addition, if there is itchiness, etc., one must note it as “itching, itching,” etc., according to its arising.

8. What Saying Is Very Useful When One Is Practicing Vedanānupassanā?

When observing like this, the stiffness, heat, etc., may become more and more intense. Then, the desire to move may arise. However, one should not change postures immediately. After noting this intention as “wanting to change,” one must forbear these unpleasant feelings and observe them. Forbearing in this way is called khantīsamvara. The Myanmar saying that: “If one can forbear, one can realize nibbāna” is very useful in relation to the practice of meditation.

9. How Can Insight Knowledges Arise and Nibbāna Be Attained?

Only by observing with forbearance, after the arising of concentration, can insight knowledges and path and fruition knowledges arise, and can nibbāna be attained. If one cannot forbear, and changes postures frequently, it will be difficult for concentration to arise. If concentration doesn’t arise, then insight knowledges cannot arise. Thus, one cannot attain nibbāna with path and fruition knowledges.

10. When Can the Unpleasant Feelings that Are Difficult to Bear Vanish?

Therefore, by forbearing as much as one can, one must observe the unpleasant feelings. When mindfulness, concentration and knowledge have become strong, these unpleasant feelings that are difficult to bear can vanish as though they have been taken away. There are many people, having been abandoned by doctors saying: “There is no longer any treatment left, there is only death,” who have recovered even from these serious diseases when they practiced meditation. Therefore, one must forbear as much as possible and observe the unpleasant feelings.

11. What Should One Do When Unpleasant Feelings Become Extreme and One Can No Longer Bear Them?

When unpleasant feelings become extreme and one can no longer bear them, one may change postures. When changing postures, after noting the intention to move, one must observe the bodily movements of changing postures thoroughly and without a break. After observing in this way, one must return to observing the rising and falling of the abdomen.

12. When Do Neutral Feelings, Upekkhā Vedanā, Arise?

One must also observe until the mental suffering and anxiety, etc., in one’s mind have disappeared. Then, if obvious pleasant feelings arise from pleasant physical contact in the body, one must also observe them. One must also observe joy and happiness, pleasant feelings in the mind. When neither good nor bad, neutral feelings arise and are obvious, one must also note them. These neutral feelings, upekkhā vedanā rarely arise. They tend to arise only when special knowledge has become mature. One must observe these three kinds of feelings as they arise. The following verse is given: “Good, bad, neutral feelings, one must note them as they arise.”

Here, “Good” means pleasant feelings, sukha vedanā. “Bad” means dukkha vedanā. “Neutral” means upekkhā vedanā. These three types of feelings arise one at a time. Therefore, we say that one must observe and know them as they arise. This is enough to understand how to practice mindfulness of feelings, vedanānupassanā.

13. What are “Dhamma Objects”?

Whatever objects that arise that are not included in bodily actions, mental activity, or feelings are called “dhamma objects.” What are they? They are seeing, hearing, etc.

14. What is Āyatanadhammānupassanā?

When observing the rising and falling, if one sees something, one must note it as “seeing.” If one hears something, one must note it as “hearing.” If one smells something, one must note it as “smelling.” When eating, if one knows the taste, one must note it as “tasting.” If one touches something, one must note it as “touching.” If one plans, one must note it as “planning.” Observing in this way and coming to know is in accordance with the statement “Cakkhuñca pajānāti, rūpe ca pajānāti,” etc., that is explained in the Exegesis on Āyatanadhammānupassanā.

15. What is Nivaranadhammānupassana?

Then, if one wants something, one must note it as “wanting.” If one likes something, one must note it as “liking.” This is the method of observing kāmacchandha in brief. If byābāda, anger and aversion arise, one must note them as “anger,” etc. If thinamiddha, laziness arises, one must note it as “lazy,” etc. If uddhacca, restlessness and kukkucca, remorse arise, one must note them as “restlessness,” and “remorse.” If one doubts the Buddha and Dhamma, one must note it as “doubt.” One may even think that this doubt is reflective knowledge.

Therefore, when observing rising and falling, etc., if one reflects regarding the way of practice, one must note it as “reflecting.” Observing in this way is in accordance with the statement “Santaṁ vā ajjhataṁ kāmacchandaṁ atthi me ajjattaṁ kāmacchandoti pajānāti,” etc., that is explained in the Exegesis on Nivaranadhammānupassana.

16. What Should One Observe When Practicing Satipaṭṭhāna?

When observing the rising and falling, if dhammas such as seeing, hearing, etc., wanting and liking, etc., arise, one must observe these dhammas that arise and know them. The verse is given: “One must know the dhammas that arise conspiciously or obviously.”

Thus, there are no longer any phenomena that are not known. One will know all the phenomena that arise in the body. What was discussed just now completes all the phenomena to be known. This means: observe bodily actions every time they arise. Observe mental activity every time it arises. Observe feelings every time they arise. Observe dhamma objects every time they arise. This is the entire method of developing the four Satipaṭṭhānas. These are all the things that yogis know after noting and observing.

Some people think and criticize that one must only observe two things: the rising and falling of the abdomen. This is not correct. With the rising and falling as a basis, one must observe all phenomena that arise. When one reaches insight knowledge of dissolution bhangañana, we give also the instruction for one to observe spreading the attention to whatever phenomena that arise, bodily and mental activities, feelings, dhamma objects, as they arise, without observing any object as a basis.

I am going to finish the Dhamma Talk here and before we close the Dhamma talk, let us recite again the three valuable aphorisms from Mahasi Sayadaw.

1. Practice Satipaṭṭhāna vipassanā meditation now. If one practices now, one gains the benefits right now.

2. There are many people, having been abandoned by doctors saying: “There is no longer any treatment left, there is only death,” who have recovered even from these serious diseases when they practiced meditation.

3. Whatever objects that arise that are not included in bodily actions, mental activity, or feelings are called “dhamma objects.”

May you be well and happy.

Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Bài viết liên quan

  • Thế Nào Là Thực Hành Đúng Đắn Minh Sát Tứ Niệm Xứ?, Web, Face
  • Chuẩn Bị Tâm Thái Trước Khi Hành Thiền, Web, Youtube, Web Link
  • Thế Nào Là Thực Hành Đúng Đắn Minh Sát Tứ Niệm Xứ, Web, Face
  • Cái Gì? What? Như Thế Nào? How? Để Làm Gì? For What? – Ba Câu Hỏi Cốt Lõi Trong Minh Sát Tu Tập – Sumangala Bhikkhu Viên Phúc, Web, Face
  • Căn Bản Thực Hành Tứ Niệm Xứ
  • Minh Sát Vipassana – Thiền Hành & Thiền Tọa, Web
  • Thực Hành Thiền Minh Sát Tứ Niệm Xứ Quan Trọng Như Thế Nào?, Web
  • Mahasi Sayadaw Vipasana Meditation Instructions
  • Hướng Dẫn Thực Hành Thiền Minh Sát Vipassana By Tharmaneykyaw Sayadaw
  • English Version. Youtube
  • Thiền Sư Mahasi – Hướng Dẫn Thực Tập Thiền Minh Sát Phần 1, Web
  • Hộ Trì Cho Mình Hộ Trì Người Khác, Web, Face
  • Tứ Niệm Xứ Tu Tập, Làm Cho Sung Mãn Đem Lại Thành Quả Gì, Web, Face
  • Thấy Biết Cái Gì Thì Được Coi Là Thấy Biết ‘Như Thật’, ‘Như Nó Đang Là’ Khi Thực Hành Tu Tập Minh Sát Tứ Niệm Xứ Vipassnā Satipaṭṭhānā?, Web, Face
  • Tập Trung Vào Đề Mục Chính Để Vun Bồi Phát Triển Định Trong Tu Tập Thực Hành Thiền Minh Sát Vipassnā Tứ Niệm Xứ, Web, Face
  • Quán Thọ Như Thế Nào Để Đạt Tới Ái Tận Giải Thoát, Cứu Cánh Viên Mãn, Chứng Đạt Niết Bàn?, Web, Face
  • Minh Sát Tuệ Đầu Tiên Là Gì?Được Tu Tập Như Thế Nào?Bài 1/2: Hướng Dẫn Tu Tập Vun Bồi Và Phát Triển Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Của Ngài Đại Trưởng Lão Thiền Sư Mahasi, Web, Face
  • Minh Sát Tuệ Đầu Tiên Là Gì?Được Tu Tập Như Thế Nào?Bài 2/2: Phương Pháp Tu Tập Vun Bồi Và Phát Triển Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Nāma – Rūpa – Pariccheda – Ñāṇa Theo “Thanh Tịnh Đạo”, Web, Face
  • Thế Nào Là Không Nắm Giữ Tướng Chung, Không Nắm Tướng Riêng?, Web, Face
  • Lợi Ích Phòng Hộ Các Căn Là Gì ?, Web, Face
  • Kāma – Dục (Tham Ái) Và Chanda – Dục (Mong Muốn) Khác Nhau Như Thế Nào?, Web, Face
  • Làm Thế Nào Diệt Trừ Tà Kiến, Web, Face
  • “Tu Tập Và Phát Triển Thái Độ Không Bám Níu, Không Chấp Trước Vào Bất Cứ Cái Gì Trên Đời Này” Là Tu Tập Cái Gì? Như Thế Nào?, Web, Face
  • Chỉ Bằng Chánh Niệm Thì Không Thể Biết Và Thấy Các Pháp Như Thật, Như Nó Đang Là, Vì Chánh Niệm Mới Chỉ Là Điều Kiện Cần, Không Phải Là Điều Kiện Đủ!, Web, Face
  • Yếu Pháp Tu Tập Tuệ Giải Thoát, Web, Face
  • Yếu Pháp Tu Tập Tuệ Giải Thoát – Bài 2/6 – Tứ Niệm Xứ, Web, Face
  • Quán Pháp – Tứ Thánh Đế: Thực Hành Tu Tập Định – Tuệ Hiệp Thế Dẫn Đến Định – Tuệ Siêu Thế Như Thế Nào?, Web
  • Bài 4/6 Phần 1 – Như Lý Tác Ý Là Như Thế Nào?, Web, Face
  • Bài 4/6 Phần 2 – Như Lý Tác Ý: Có Bao Nhiêu Cách Quán Vô Thường – Khổ – Vô Ngã Của Ngũ Uẩn Trong Thực Hành Tu Tập Hàng Ngày?, Web
  • Cetanā – Tác Ý Tư Tâm Sở Và Manasikāra – Tác Ý Chú Tâm Khác Nhau Như Thế Nào?, Web, Face
  • Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức, Web, Face
  • Ngũ Uẩn Là Gì, Web, Face

Audio Bài Giảng

  • (46) Quán Pháp: Ngũ Uẩn – Vị Ngọt, Sự Nguy Hiểm, Sự Xuất Ly. Thiền Sư Viên Phúc, Web Link, Youtube
  • (47) Quán Ngũ Uẩn: Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức – Không Phải Của Ta Hãy Từ Bỏ Nó., Web Link, Youtube
  • (48) Như Lý Tác Ý Ngũ Thủ Uẩn Là Rỗng Không Là Trống Không, Web Link, Youtube
  • Hiện Tại Lạc Trú Là Gì? Tịch Tĩnh An Trú Là Gì? Đoạn Diệt (Phiền Não) Là Gì?, Web, Face
  • Pháp Thượng Nhân – Uttarimanussadhammo, Web, Face
  • Sayādaw U Sīlānanda – Myanmar.
  • Anata – Vô Ngã Là Gì, Web, Face
  • Vô Ngã Là Vô Thường & Khổ, Web, Face
  • Vô Ngã: Hiểu Biết Đúng Đắn Và Hiểu Biết Sai Lầm, Web, Face
  • Anata – Vô Ngã Là Gì, Web, Face
  • Who Am I, Ta Là Ai, Web, Face
  • Thấy Chỉ Là Thấy, Web, Face
  • Ai Đang Nói, Ai Đang Nghe, Web, Face
  • Ai Ăn Thức Thực? Ai Cảm Xúc? Ai Cảm Thọ? Ai Khát Ái? Ai Chấp Thủ?, Web, Face
  • Hết Luân Hồi Thì Đi Đâu, Web, Face
  • Điều Này Không Thể Xảy Ra, Web, Face
  • 8 Pháp Vi Diệu Chưa Từng Có Trong Pháp Và Luật Của Đức Thế Tôn Là Gì?, Web, Face
  • Học Từ Từ, Tập Từ Từ, Thực Hành Từ Từ, Web, Face
  • Như Thế Nào Là Lộ Trình Tu Tập Thánh Đạo Giác Ngộ?, Web, Face
  • Trong Pháp Và Luật Này Có Một Tuần Tự Học Tập, Một Tuần Tự Công Trình, Một Tuần Tự Đạo Lộ?, Web, Face
  • Bậc trí theo tuần tự (Pháp Cú 239), Web, Face
  • Bốn Đạo Lộ Tu Tập Chỉ Tịnh Samatha – Minh Sát Vipassanā Dẫn Tới Đạo Quả Alahán, Web
  • Chớ Quên Lợi Ích Của Chính Mình (Pháp Cú 166), Web, Face
  • Học Gì Hết Ngu, Tu Gì Hết Khổ, Web, Face
  • Người Già Cao Tuổi, Đầy Bệnh Hoạn, Luôn Ốm Đau Bằng Cách Nào Có Thể Đạt Tới Hạnh Phúc, An Lạc Lâu Dài?, Web, Face
  • Bạn Chăm Sóc Thân Thể Của Bạn, Tại Sao Không Chăm Sóc Tâm Trí Của Bạn?, Web, Face
  • Ái Dục Trói Buộc Chúng Sinh Vào Khổ Đau Bất Tận Của Luân Hồi Sinh Tử Trong Tam Giới Như Thế Nào?, Web, Face
  • 7 Yếu Tố Cần Thiết Đưa Đến Giác Ngộ Là Gì?, Web, Face
  • Nhân Để Sinh Giác Ngộ Có Mấy Pháp?, Web, Face
  • Pháp Thoại: Thất Giác Chi – 7 Yếu Tố Giác Ngộ, Web
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Nhất: Chánh Niệm., Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Hai: Trạch Pháp, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Ba: Tinh Tấn, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Ba: Tinh Tấn (Phần 2 Tiếp Theo), Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Tư: Hỷ, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Năm: Thư Thái Giác Chi, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Sáu: Ðịnh, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Bảy: Xả, Web, Face
  • Sự Chứng Đắc Rốt Ráo Là Gì, Web, Face
  • “Người Hiền Trí” – Bài 1/4: Kẻ Ngu & Người Hiền Trí Khác Nhau Thế Nào?, Web, Face
  • “Người Hiền Trí” – Bài 2/4: Giới (Dhatù – Elements) Là Gì? Xứ (Àyatana – Spheres) Là Gì?, Web, Face
  • “Người Hiền Trí” – Bài 3/4: Duyên Khởi Là Gì? (Paṭic­Ca­Samup­Pāda­ – Depending Arising), Web, Face
  • “Người Hiền Trí” – Bài 4/4: Xứ Phi Xứ (Có Thể & Không Thể) Là Gì? (Ṭhānāṭhā­Na­ – Possible And Impossible), Web, Face
  • Tà Kiến: “Tánh Biết Không Sinh Không Diệt”, Web, Face
  • Làm Thế Nào Diệt Trừ Tà Kiến, Web, Face
  • Người Hiền Trí – Bài 3/4: Duyên Khởi Là Gì? (Paṭic­Ca­Samup­Pāda­ – Depending Arising), Web, Face
  • “Lý Duyên Sinh” Theo “Thanh Tịnh Đạo” P4: Vô Minh Duyên Hành, Web, Face
  • Lý Duyên Sinh – Bánh Xe Sinh Tử, Web, Face
  • Playlist Loạt Bài Giảng: “Lý Duyên Sinh” Theo “Thanh Tịnh Đạo”, Youtube
  • Kinh 7 Trạm Xe, Web, Face
  • Vesak 2020 – Cùng Ôn Lại Con Đường Giác Ngộ Giải Thoát , Web, Face
  • Tất Cả Pháp Lấy Gì Làm Căn Bản?, Web, Face
  • Kāma – Dục (Tham Ái) Và Chanda – Dục (Mong Muốn) Khác Nhau Như Thế Nào?, Web, Face
  • Cetanā – Tác Ý Tư Tâm Sở Và Manasikāra – Tác Ý Chú Tâm Khác Nhau Như Thế Nào?, Web, Face
  • Chớ Có Tu Lộn Ngược, Web, Face
  • Lộn Ngược Là Thế Nào, Web, Face
  • Thế Nào Là Tưởng Điên Đảo? Tâm Điên Đảo? Kiến Điên Đảo?, Web, Face
  • Thế Nào Là Hão Huyền? Thế Nào Là Vọng Tưởng?, Web, Face
  • Thuận Theo Tự Nhiên Nào, Web, Face
  • Hàng Ngày Không Quên: Sám Hối – Rải Tâm Từ – Phát Nguyện – Hồi Hướng Công Đức, Web, Face
  • Vị Thầy Chân Chính: Một Trợ Duyên Tối Quan Trọng Không Thể Thiếu, Web, Face
  • Tìm Gặp Thiện Tri Thức, Web, Face
  • Tôn Giả Nhất Cú Và Tôn Giả Cùla-Panthaka, Web, Face
  • Danh Mục Các Bài Viết Quan Trọng, Web, FB
  • Tôi Nguyện, Web, FB
  • Tại Sao Myanmar, Web, FB
  • Mục Đích Sử Dụng Facebook Là Gì?, Web, FB
  • Sàng Lọc Thông Tin Như Thế Nào?, Web, FB
  • Thế Nào Là Tu Đúng Đạo Phật, Web, FB
  • Điều Kiện Tham Dự Các Khóa Thiền Minh Sát Vipassana (Tứ Niệm Xứ) Theo Phương Pháp Ngài Trưởng Lão Thiền Sư Mahasi Sayadaw Tại Thiền Viện Ta-Ma-Nê-Chô, Yangon, Miến Điện, Web, FB
  • Cái Gì? What? Như Thế Nào? How? Để Làm Gì? For What? – Ba Câu Hỏi Cốt Lõi Trong Minh Sát Tu Tập – Sumangala Bhikkhu Viên Phúc, Web, FB
  • Lưu Lại Để Dễ Tìm Các Danh Mục Bài Viết Theo Chủ Đề – Photo Albums Trên Fb Sumangala Bhikkhu Viên Phúc (P1/3), Web, FB
  • Lưu Lại Để Dễ Tìm Kiếm Các Bài Viết Quan Trọng: (P2/3) Facebook Links List A Tam Bảo, Nghiệp…, Web, FB
  • Lưu Lại Để Dễ Tìm Kiếm Các Bài Viết Quan Trọng: (P3/3) Facebook Links List B Tu Tập Định, Tuệ, Tứ Thánh Đế…, Web, FB

Audio – Video Bài Giảng – Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala – Thiền Viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar.

  • Youtube, Youtube
  • Archive, Archive
  • Yếu Pháp Tu Tập Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Youtube
  • Thiền Minh Sát Vipassana Lý Thuyết Và Thực Hành, Youtube
  • Ehipassiko – Đến Để Thấy: Phóng Sự Về Khóa Tu Thiền Minh Sát Vipassana Tại Chùa Nam Tông SG, Youtube
  • Xin Hãy Đừng Phí Phạm Dù Chỉ Mỗi Một Giây – Thiền Sư Sumangala Bhikkhu Viên Phúc, Youtube
  • Giới Và Luật Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Youtube
  • Thọ Trì Tam Quy và Ngũ Giới, Web, FB
  • 9 Ân Đức Phật, 6 Ân Đức Pháp, 9 Ân Đức Tăng, Web, FB
  • Sám Hối – Tha Thứ – Rải Tâm Từ – Phát Nguyện – Hồi Hướng Công Đức, Web, FB

Bài viết trên facebook ngày 17 tháng 6 năm 2021