Phần 4: Akaliko – Ehipasiko: ngay tức thì – đến để thấy

[lwptoc]

PHẦN 4: AKALIKO – EHIPASIKO: NGAY TỨC THÌ – ĐẾN ĐỂ THẤY

Đại Trưởng Lão Thiền sư Ta-ma-nê-chô (Tharmanaykyaw Sayadaw Ashin Dhammikabivamsa – Agga mahā ganthavācaka paṇḍita) – Pháp thoại dành cho thiền sinh thực hành thiền Minh Sát Vipassana Tứ Niệm Xứ theo truyền thống Mahasi Sayadaw.

(English below)

Để tiếp tục bài Pháp vào tháng hai, hôm nay, ngài thiền sư sẽ tiếp tục giảng về sự quan trọng của việc thực tập thiền niệm xứ minh sát (Satipaṭṭhāna vipassanā) dựa trên các bài giảng của ngài Mahasi Sayadaw.

Sư muốn chia sẻ với quý vị thêm ba điều đáng ghi nhận dựa trên các bài giảng của ngài Mahasi Sayadaw:

1 – Hãy hành thiền niệm xứ Minh sát ngay bây giờ. Nếu ai thực tập ngay bây giờ, người ấy sẽ đạt được sự lợi ích ngay bây giờ.

2 – Có rất nhiều người bệnh đã bị bác sĩ chê và nói rằng: Không còn cách chữa trị nào cả, chỉ còn đợi chết mà thôi. Vậy mà sau khi hành thiền, họ đã hồi phục khỏi những cơn bệnh nặng này.

3– Bất cứ những đề mục sanh khởi nào mà không thuộc về những động tác của thân tâm hay thọ thì được gọi là đề mục của Pháp.

CÂU HỎI 1: Akāliko có nghĩa là gì ?

Akāliko có nghĩa là Pháp với khả năng đưa ra kết quả ngay lập tức, không có sự chậm trễ.

Có một số người nói rằng chỉ sau khi chết và trong kiếp tới thì thượng đế sẽ cứu rỗi chúng sanh. Không ai có thể kinh nghiệm hoặc biết được điều này trong kiếp hiện tại. Thật ra chúng ta không biết được là mình sẽ được cứu hay không.

Việc nói là cứu người sau khi chết là việc dễ. Nhưng thật ra để biết thật sự chuyện gì sẽ xảy ra sau khi chết là điều khó. Không ai biết được thế nào là đúng, thế nào là sai. Đức Phật không dạy như vậy. Pháp ngài dạy là Akāliko, nghĩa là, cho kết quả ngay lập tức, không có sự trì hoãn nào cả. Nếu ai thực tập hôm nay, người ấy sẽ gặt hái sự lợi ích hôm nay.

CÂU HỎI 2: Trong ý nghĩa nào, mà pháp được tôn vinh là Akāliko?

Những lợi ích thật sự có được là như sau:

Chẳng hạn, nếu ai thực tập giới (sīla) ngay bây giờ, người ấy sẽ có được các lợi ích liên quan đến giới ngay bây giờ. Nhờ sự thực tập giữ giới và khi giới đức được trong sạch, người ấy có được sự sạch sẽ và trong sáng của tâm và có luôn hỷ và lạc. Không có gì đáng chê trách và người ấy đã có được các phẩm tính đáng ngợi khen. Đây là một lợi ích mà người ấy gặt hái được.

Nếu ai thực tập định (samādhi) thì tâm không tán loạn, và đến một lúc nào đó tâm sẽ trở nên lắng đọng và người ấy có được sự an tịnh. Người ấy có được sự vui vẻ của nội tâm. Càng tập định nhiều bao nhiêu thì người ấy càng có cơ hội có được sự an tịnh bấy nhiêu.

Còn nếu ai hành thiền minh sát (vipassanā), người ấy sẽ biết ngay lập tức tất cả các hiện tượng của thân và tâm đều sanh rồi diệt. Nếu ai thực sự thực tập thì người ấy sẽ thật sự biết như vậy. Và người ấy biết như vậy ngay lúc này. Người ấy biết vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta) ngay lúc này.

Hơn thế nữa, nếu ai thực sự thực tập và khi sự thực tập đã được hoàn mãn, người ấy sẽ kinh nghiệm niết bàn (nibbāna) – nơi tập hợp danh sắc ngừng nghỉ. Việc này không phải đợi xảy ra trong kiếp tới. Do đó, đây là Pháp cao thượng, có thể mang đến sự lợi ích ngay lập tức, không chậm trễ.

CÂU HỎI 3: Làm sao mà phẩm tính Akāliko của Pháp có thể sách tấn tôi được?

Các bạn hãy thực tập bây giờ. Nếu ai thực tập bây giờ người ấy sẽ được sự lợi ích bây giờ. Điều này chính là sự khích lệ lớn lao. Pháp mà chúng ta thực tập sẽ đưa lại kết quả ngay lập tức. Chúng ta có thể gặt hái kết quả ngay lập tức. Việc thực tập Pháp giúp chúng có được sự kinh nghiệm ngay tức thời và cho ta sự hiểu biết về các hiện tượng thân tâm vô thường (anicca), khổ (dukkha) và vô ngã (anatta). Đây là Pháp mà sẽ hướng chúng ta đến sự chứng đạt niết bàn (nibbāna) ngay trong thời gian chúng ta đang thực tập. Nếu chúng ta luôn nhớ rằng: “Tôi đang thực tập một Pháp mà sẽ đưa ra kết quả ngay bây giờ” thì tâm của chúng ta được khích lệ và hỉ (pīti) có thể phát sinh. Điều này thật là cao quý.

CÂU HỎI 4: “Ehi-passiko” có nghĩa là gì?

Ehi ← có nghĩa là hãy đến

Passa ← có nghĩa là hãy nhìn và xem

Ehipasiko ← nghĩa là Pháp xứng đáng để mời các bạn hãy đến và xem

Khi ai ăn hay uống một thứ gì ngon, chẳng hạn như ăn một quả trái cây ngọt, người ấy có thể biếu cho bạn mình. Họ sẽ khích lệ bạn mình rằng: “Hãy đến và nếm thử cái này thật là ngon”. Và khi chúng ta ăn được món gì bổ dưỡng, chúng ta nhớ ơn đến người đã khuyến khích chúng ta ăn.

CÂU HỎI 5: Tại sao Pháp lại xứng đáng để mời rằng xin hãy đến và xem?

Nếu ai sách tấn một người nào đó đi hành thiền và người đó sau khi thực tập đã nếm được vị tuyệt vời của Pháp thì người đó rất biết ơn. Bây giờ, sau khi được thiền sư hướng dẫn thiền tập, các thiền sinh rất biết ơn thiền sư, biết ơn đến những ai đã hướng dẫn họ. Họ cũng biết ơn đến những ai đã thúc đẩy và khuyến khích họ từng bước một. Sau khi hành thiền, một số người kể lại rằng lúc đầu họ chẳng quan tâm gì đến Pháp cả. Nhưng họ đã hành thiền vì có người nào đó đã khuyến khích và thúc đẩy họ. Nếu không nhờ vậy, họ đã mất đi cơ hội để kinh nghiệm Pháp. Vì vậy, họ nói rằng họ rất biết ơn. Họ biết ơn đến những ai đã khuyến khích họ. Ehipasiko – Pháp đáng để thúc đẩy người khác rằng xin hãy đến và xem. Bởi vì Pháp quá tuyệt diệu nên Pháp xứng đáng để mời người khác đến thực tập và kinh nghiệm cho chính họ. Đây là Pháp của đạo, quả và Niết Bàn mà Đức Phật đã dạy.

Pháp của Đức Phật xứng đáng để khuyến khích người khác rằng xin hãy đến và xem, để thực tập, và kinh nghiệm cho chính mình. Đây là Pháp mà nếu ai thực tập, vì được khích lệ, người ấy sẽ trở nên vui mừng khi đạt được sự lợi ích. Trong khi thực tập nếu Thiền sinh luôn nghi ghi nhớ rằng: “Tôi đang hành trì cái pháp”, thì tâm của người thiền sinh sẽ được khích lệ rất tốt để hỷ giác chi (pīti sambojjhanga) sanh khởi.

CÂU HỎI 6: Làm sao để có niềm tin vào sự thực tập?

Ehipasiko một pháp xứng đáng để sách tấn và mời người khác rằng: “Đến và thấy, thực tập và thấy”. Nếu ai đó khi được khuyến khích là “Xin hãy thực tập và thấy”, nhưng không đạt được kết quả sau một thời gian, điều này thì không được chấp nhận. Chỉ có thể chấp nhận chỉ khi có kết quả sau một thời gian ngắn hay ngay lập tức. Và nếu được như vậy, người ấy mới biết ơn đến người đã khuyến khích mình. Chẳng hạn như có một bệnh nhân được khuyên rằng hãy thử uống thuốc này và họ dùng thử loại thuốc đó mà cơn bệnh không hết ngay thì người bệnh nhân sẽ không tin tưởng vào thuốc hay tin vào người đã khuyên mình. Nhưng nếu sau khi thử thuốc mà người bệnh thấy dễ chịu và hết bệnh, sau một ngày hay một đêm, người ấy sẽ có niềm tin nơi thuốc và biết ơn người đã giới thiệu và khuyến khích mình thử thuốc.

Có như vậy thuốc ấy mới xứng đáng để được người mời người khác rằng: “Xin hãy thử và thấy”. Tương tự như vậy. Pháp của Đức Phật là Ehipasiko. Pháp mà xứng đáng để khuyến khích và mời người khác rằng hãy đến và thấy hay hãy thực tập và thấy. Nếu ai thực sự thực tập đúng như lời mời và lời khuyên, người ấy sẽ kinh nghiệm được lợi ích của sự giải thoát khỏi tham ái cũng như giải thoát khỏi các phiền não trong kiếp sống này. Sau khi đã kinh nghiệm Pháp, bằng cách này, người ấy sẽ rất biết ơn người đã khuyến khích mình thực tập.

CÂU HỎI 7: Thực tập với Vedanānupassanā hay quán thọ là như thế nào?

Sau khi ngồi thiền một thời gian dài, các cảm giác khó chịu như đau, cứng có thể phát sanh. Trong lúc này, thiền sinh phải quán sát cảm thọ nào rõ rệt nhất.

Nếu có sự cứng, thiền sinh phải chú tâm vào nơi bị cứng đó quan sát và ghi nhận (satipaṭṭhāna) nó là cứng cứng.

Nếu có sự nóng thì phải ghi nhận là nóng nóng.

Nếu có sự đau thì phải ghi nhận là đau đau. Hơn nữa, nếu có sự ngứa v.v. thì phải ghi nhận là ngứa ngứa, ghi nhận tùy theo sự sanh khởi của mỗi cảm thọ.

CÂU HỎI 8: Có lời khuyên nào thật hữu ích cho tiền sinh khi đang hành Vedanānupassanā hay quán thọ?

Khi quan sát họ như đã nói trên, sự cứng, sự nóng v.v. có thể trở nên dữ dội hơn. Vì vậy, ý muốn xê dịch, thay đổi tư thế có thể khởi lên.

Tuy nhiên, thiền sinh không nên đổi tư thế ngay lập tức. Sau khi ghi nhận ý muốn đổi, thiền sinh phải kham nhẫn bởi những cảm giác khó chịu này và cố gắng quan sát nó.

Kham nhẫn bằng cách này gọi là nhẫn nại chịu đựng (khantīsamvara). Người Miến có câu là kham nhẫn đưa đến niết bàn. Câu này rất lợi ích cho sự hành thiền.

CÂU HỎI 9: Làm sao các Tuệ Minh sát sanh khởi và làm sao Niết bàn có thể được chứng đắc?

Chỉ bằng cách quan sát với sự chịu đựng và sau khi có sự định tâm, Tuệ minh sát, các đạo và quả tuệ sẽ sanh khởi và niết bàn có thể được chứng đắc.

Nếu thiền sinh không kham nhẫn mà đổi tư thế thường xuyên thì rất khó để có được sự định tâm. Nếu không có sự định tâm thì sẽ không có các tuệ minh sát và thiền sinh sẽ không chứng đắc niết bàn (nibbāna) với tuệ của đạo và quả.

CÂU HỎI 10: Khi nào thì các khổ thọ, các cảm giác khó chịu khó kham nhẫn bị mất đi?

Do đó các thiền sinh phải kham nhẫn càng nhiều càng tốt. Thiền sinh phải quan sát các khổ thọ khi chánh niệm, sự định tâm và trí tuệ trở nên mạnh mẽ.

Các khổ thọ khó kham nhẫn này có thể biến mất như thể bị ai lấy đi. Có nhiều người sau khi đã bị các bác sĩ chê và nói rằng: “Không còn cách chữa trị nào cả, chỉ còn đợi chết mà thôi” đã lành phục sau khi họ hành thiền. Do đó, các thiền sinh phải kham nhẫn càng nhiều càng tốt và cố gắng quan sát các khổ thọ.

CÂU HỎI 11: Thiền sinh phải làm sao khi các khổ thọ trở nên quá mức và thiền sinh không còn chịu đựng được nữa?

Khi các khổ thọ trở nên quá mức và thiền sinh không còn chịu đựng được nữa thì người thiền sinh có thể đổi tư thế. Khi đổi tư thế, trước tiên, thiền sinh phải ghi nhận ý muốn đổi, sau đó ghi nhận tất cả các động tác của sự đổi tư thế một cách thật chi tiết và liên tục mà không có sự gián đoạn nào. Sau khi đã ghi nhận như vậy về sự đổi tư thế, thiền sinh trở lại và ghi nhận sự phồng xẹp ở bụng.

CÂU HỎI 12: Khi nào thọ trung tính, hay thọ xả (Upekkhā Vedanā) sanh khởi?

Thiền sinh phải quan sát cho đến khi các lo âu, băn khoăn trong tâm được biến mất.

Và nếu các lạc thọ sanh khởi từ thân xúc thì thiền sinh cũng phải quan sát chúng. Thiền sinh phải quan sát các lạc thọ trong tâm.

Khi các thọ trung tính không không tốt cũng như không xấu, sanh khởi và trở nên rõ rệt thiền sinh cũng phải ghi nhận chúng. Các thọ trung tính (upekkhā vedanā) này rất hiếm khi sanh khởi. Chúng có khuynh hướng chỉ sanh khởi khi các tuệ đặc biệt được lớn mạnh.

Thiền sinh phải quan sát cả ba loại cảm thọ này. Có câu cách ngôn sau đây để tóm tắt điều này: “Đối với các thọ tốt, xấu hay trung tính, thiền sinh đều phải ghi nhận chúng mỗi khi chúng sanh khởi”.

Ở đây tốt, có nghĩa là lạc thọ (sukha vedanā), xấu có nghĩa là khổ thọ (dukkha vedanā), trung tính nghĩa là xả thọ (upekkhā vedanā). Ba loại cảm thọ này khởi sanh riêng biệt. Do đó, thiền sinh phải quan sát và biết chúng khi chúng sanh khởi.

Nói đến đây là vừa đủ để thiền sinh hiểu cách làm sao để thực tập chánh niệm trên các cảm thọ hay quán thọ (vedanānupassanā).

CÂU HỎI 13: Đối tượng của Pháp hay là Pháp cảnh là gì?

Bất cứ những đề mục sanh khởi nào mà không thuộc về những động tác của thân tâm hay thọ thì được gọi là đề mục của Pháp. Chúng là gì? Đó là sự thấy sự nghe, v.v.

CÂU HỎI 14: Quán Xứ Pháp (Āyatanadhammānupassanā) là gì?

Khi đang quán phồng xẹp, nếu sinh thấy cái gì phải liền ghi nhận là “thấy thấy”. Khi nghe cái gì thì phải liền ghi nhận là “nghe nghe”. Khi ngửi mùi gì thì phải liền ghi nhận là “ngửi ngửi”. Nếu đụng ghi nhận “đụng đụng”. Nếu dự tính việc gì phải ghi nhận “dự tính dự tính”.

Quán và biết như vậy là làm đúng theo câu:

Cakkhuñca pajānāti, rūpe ca pajānāti, …

có nghĩa là hành giả biết con mắt và hành giả biết sắc pháp v.v, được nói trong đoạn quán xứ pháp (Āyatanadhammānupassanā) trong kinh.

CÂU HỎI 15: Quán chướng ngại pháp (Nivaranadhammānupassana) là gì?

Nếu thiền sinh muốn cái gì phải ghi nhận là “muốn”. Nếu thích cái gì thì phải ghi nhận là “thích”. Đây là phương pháp để quán quán dục vọng (kāmacchandha) một cách vắn tắt.

Nếu sân và hận (byābāda) sanh khởi thiền sinh phải ghi nhận là “giận” v.v.

Nếu lười biếng (thinamiddha) sanh khởi thiền sinh phải ghi nhận là “lười” v.v.

Nếu trạo cử (uddhacca) bất an (kukkucca) sanh khởi thiền sinh phải ghi nhận là “trạo cử” và “bất an”.

Nếu thiền sinh nghi ngờ về Phật pháp, thiền sinh phải ghi nhận “nghi ngờ”. Ở đây thiền sinh có thể nghĩ lầm rằng cái sự nghi ngờ này là tuệ duyệt lại. Do đó, khi đang quan sát phồng xẹp vân..vân , nếu thiền sinh suy ngẫm về phương cách hành thiền thì phải ghi nhận là “suy ngẫm”.

Quan sát bằng cách này, là theo đúng như câu

Santaṁ vā ajjhataṁ kāmacchandaṁ atthi me ajjattaṁ kāmacchandoti pajānāti,…

Có nghĩa là khi tham ái có mặt tỳ kheo biết là có tham ái trong tôi, v.v, như được giải thích trong kinh phần quán chướng ngại (Nivaranadhammānupassana).

CÂU HỎI 16: Khi thực tập niệm xứ (Satipaṭṭhāna) thiền sinh phải quan sát cái gì?

Trong khi quan sát phồng xẹp? Nếu các pháp như thấy nghe, muốn, thích v.v, thiền sinh phải quan sát các pháp này và biết chúng.

Câu kệ dạy rằng: “Thiền sinh phải biết các pháp đang sanh khởi hiển nhiên hay rõ rệt”.

Như vậy không có bất cứ một hiện tượng nào mà không được biết. Thiền sinh phải biết tất cả các hiện tượng đang sanh khởi trong thân.

Ngài thiền sư vừa trình bày đầy đủ tất cả các hiện tượng cần được biết.

Có nghĩa là: hãy quan sát tất các hoạt động của thân mỗi khi chúng sanh khởi.

Hãy quan sát tất cả các hoạt động của tâm mỗi khi chúng sanh khởi.

Hãy quan sát tất cả các cảm thọ mỗi khi chúng sanh khởi.

Hãy quan sát tất cả các đối tượng về pháp mỗi khi chúng sanh khởi.

Đây là toàn bộ phương pháp để phát triển bốn niệm xứ (Satipaṭṭhānas). Đây là tất cả mọi thứ mà thiền sinh biết sau khi quan sát và ghi nhận.

Một số người nghĩ, và chỉ trích rằng thiền sinh chỉ cần quan sát hai đối tượng mà thôi, đó là sự phồng và xẹp của bụng. Điều này không đúng. Dùng phồng và xẹp làm căn bản, người thiền sinh phải quan sát tất cả các hiện tượng sanh khởi.

Khi thiền sinh đạt đến tuệ diệt (bhangañana), các thiền sư sẽ hướng dẫn cho các thiền sinh hãy ghi nhận chú tâm đến bất cứ hiện tượng nào sanh khởi thân thọ tâm hay pháp mà không cần phải dùng một đối tượng nào làm căn bản.

Ngài thiền sư sẽ ngưng bài pháp thoại ở đây và trước khi chấm dứt, chúng ta hãy đọc lại ba cách ngôn quý giá của ngài Mahasi:

1 – Hãy hành thiền niệm xứ Minh sát ngay bây giờ. Nếu ai thực tập ngay bây giờ, người ấy sẽ đạt được sự lợi ích ngay bây giờ.

2 – Có rất nhiều người bệnh đã bị bác sĩ chê và nói rằng: Không còn cách chữa trị nào cả, chỉ còn đợi chết mà thôi. Vậy mà sau khi hành thiền, họ đã hồi phục khỏi những cơn bệnh nặng này.

3– Bất cứ những đề mục sanh khởi nào mà không thuộc về những động tác của thân tâm hay thọ thì được gọi là đề mục của Pháp.

Và sư cầu chúc rằng tất cả các quý thiền sinh được an vui, được thoát khỏi tất cả những sự nguy hiểm, khỏi tất cả những sự khổ đau, khỏi tất cả những bệnh tật và mau chóng đạt được niết bàn.

Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Audio (Việt dịch: Đạo Hữu Sơn Từ)

PHÁP THOẠI TRỰC TUYẾN ONLINE 2021

Đại Trưởng Lão Thiền Sư Tharmanaykyaw,

Yangon, Myanmar

Pháp Thoại Dành Cho Thiền Sinh Thực Hành Thiền Minh Sát Vipassana Tứ Niệm Xứ Theo Truyền Thống Mahasi Sayadaw., Archive, Web Link

Phần 1: Thực Hành Thiền Minh Sát Tứ Niệm Xứ Quan Trọng Như Thế Nào?, 19/12/2020,, Web, Youtube

Text (Chuyển Đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên), Web Link, FB, FB

Phần 2: Opanayiko – Hướng Thượng (Tới Nibbāna), 23/01/2021, Web, Youtube

Text (Chuyển Đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên), Web,

Phần 3: Sanditthiko: Tự Mình Thấy Biết, 20/2/2021, Web, Youtube

Text (Chuyển Đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên), FB, Web

Phần 4: Akaliko – Ehipasiko: Ngay Tức Thì – Đến Để Thấy, 20/3/2021, Web, Youtube, Web Link

Text (Chuyển Đổi Voice>Text: Nguyễn Uyên), FB, Web Link,Web

Phần 5: Paccattam Veditabbo: Cần Tự Mình Liễu Ngộ, 24/4/2021, Web, Youtube

Phần 6: Sotapatti Magga: Những Đặc Tính Của Tu-Đà-Hoàn Đạo, P1, 23/5/2021

Việt Dịch, Youtube

Bản Gốc Anh-Việt. Youtube

Translation Of 6. Dhamma Talk In 5 Languages As Follows:

1. Bahasa Indonesia, Youtube

2. Myanmar Language, Youtube

3. Chinese Language, Youtube

4. Thai Language, Youtube

5. Vietnamese Language, Youtube

Bài 7: Sotapatti Magga: Những Đặc Tính Của Tu-Đà-Hoàn Đạo, P2, 20/6/2021

Việt Dịch. Youtube

Bản Gốc Anh – Việt , Youtube

ĐÔI NÉT VỀ THIỀN SƯ TA-MA-NÊ-CHÔ

Thiền Sư Ta-ma-nê-chô (Tharmanaykyaw Sayadaw Ashin Dhammikabhivamsa) sinh ngày 28/07/1956 và trở thành sa-di năm 11 tuổi. Đến năm 20 tuổi ngài trở thành tỳ-kheo với thầy tế độ của mình là Đại sư Ma-ha Gan-day-on (Maha Gandhayon Sayadaw U Janakabhivamsa). Ngài đã nhận được học vị Ta-ma-nay-chô (Tharmanaykyaw), học vị Pháp sư (Dhammacariya), học vị Abhivamsa, những học vị được kính trọng nhất, cao nhất trong hệ thống học vị của Phật giáo Theravada Myanmar, cũng như đã vượt qua kỳ thi Sakyasiha.

Năm 2018 Ngài được chính phủ Myanmar trao tặng danh hiệu cao quí Aggamahāganthavācakapaṇḍita – The foremost great wise in teachings/reciting Pāli Canon) – Bậc Đại Trí Giả Tối Thắng trong truyền dạy Pāli Canon – Phật ngôn chánh tạng.

Ngài đã ở Trung tâm thiền Mahasi 8 năm, sau đó đã cùng Thiền sư Panditamrama Sayadaw (Ngài Ashin Panditabhivamsa) chuyển tới trung tâm thiền quốc tế Panditarama, hướng dẫn, giảng dạy cho các thiền sinh quốc tế hơn 15 năm tại đây.

Từ năm 2006, ngài trở thành Viện trưởng Thiền viện Ta-ma-nay-chô Ma-ha-gan-day-ôn (Thamrmanaykyaw Mahagandhayon Monastery) tại Mawbi, Yagoon.

Ngài hướng dẫn thiền sinh thiền vipassanā, dạy Vinaya Pāḷi (Tạng Luật) cho các vị tỳ-kheo, mở khóa tu huấn luyện sa-di, tu nữ, trẻ em; phụng sự cho sự hoăng dương Giáo pháp của Đức Phật, và đã viết hơn 100 cuốn sách giảng dạy những điều cốt tủy của Phật giáo Theravada.

Ngài đã được thỉnh mời giảng dạy các khóa học, và hướng dẫn các khoá thiền tại Hoa kỳ, Thái lan, Đài loan, … và Việt nam 4/2016 – tại thiền viện Phước Sơn Đồng nai, tại Nha Trang, và tại Tòa nhà NEM 545 Nguyễn Văn Cừ, Hà nội.

 

How Important Is It to Practice Satipaṭṭhāna Vipassanā Meditation (Part – 4)?

As a continuation from the last Dhamma Talk on February 21, 2021, today (on March 21, 2021) I am going to continue to explain the importance of practicing Satipaṭṭhāna vipassanā meditation, based on the writings of the Venerable Mahasi Sayadaw.

I also would like to share three more things that are especially noteworthy from Mahasi Sayadaw that I think will be beneficial to your practice:

1. Practice Satipaṭṭhāna vipassanā meditation now. If one practices now, one gains the benefits right now.

2. There are many people, having been abandoned by doctors saying: “There is no longer any treatment left, there is only death,” who have recovered even from these serious diseases when they practiced meditation.

3. Whatever objects that arise that are not included in bodily actions, mental activity, or feelings are called “dhamma objects.”

1. What Is the Meaning of Akālika?

Akāliko – The Dhamma that is able to give results immediately, without any delay. Some people say that only after death in the future existence, God will save one. One is not able to experience or know this in the present life. One doesn’t know yet if one will be saved or not. Saving someone after death is quite an easy task. It is difficult to say what will happen after death. No one is able to say what is wrong or right. The Buddha did not teach in this way. Akāliko – giving results immediately, without any delay. If one practices now, one gains the benefits now.

2. In What Sense Is the Dhamma Honored as Akālika?

The real benefits gained are: if one attains ariya magga, the noble path, then one immediately gains ariya phala, noble fruition. If one also practices other Dhammas now, one gains the benefits now as well. If one practices sīla, morality now, one gains the benefits related to morality now. Due to the practice of morality, when morality is pure, one gains cleanliness and purity of mind as well as joy and happiness. There is nothing blameworthy, and one is being fulfilled with praiseworthy qualities. This is a benefit that one gains. If one practices samādhi, concentration, the mind does not scatter, and becomes refined at once, and one gains calmness. One gains mental happiness. The more one practices concentration, the more one gains the chance for peace.

If one also practices vipassanā meditation, one will know physical and mental phenomena and their arising and passing away immediately in the present. If one really practices, or one really knows it. One knows right now. One knows anicca, dukkha and anatta right now. Furthermore, if one really practices, when the practice is complete, one will come to know nibbāna where physical and mental aggregates cease. It does not happen in future existences. Therefore, it is a noble Dhamma that can give benefits immediately, without any delay.

3. How Can the Quality of Dhamma – Akālika Encourage You?

Practice now. If one practices now, one gains the benefits right now. It is extremely encouraging. The dhamma that we practice is one that will give results immediately, we can gain results immediately with this Dhamma. It is a Dhamma that leads one to immediately experience and understand physical and mental phenomena, impermanence, unsatisfactoriness and non-self. It is a Dhamma that will lead one to attain nibbāna within this current time of practice. If one keeps in mind that: “I am practicing a Dhamma that will give results immediately,” then one’s mind will be encouraged, and rapture pīti can arise. It is extremely good.

4. What Is the Meaning of “Ehi-passiko”?

Ehi – Come; Passa – Look and see. “Ehipassiko” means Dhamma that is worthy of inviting one to “come and see”. When one gets good food and drinks, whether they are tasty sweets or fruits, one can offer them to friends. One urges them: “Come and have a taste, it’s really good.” When one gets good nutrition, one is grateful to the person who has encouraged one.

5. Why Is the Dhamma Worthy of the Invitation: “Come and See”?

If one urges someone to practice the good Dhamma, the person who practices, having experienced the excellent flavor of the good Dhamma, is grateful. Now, after we have taught meditation practice, the people who have come here to practice meditation are quite grateful. They are grateful to those who teach. They are also grateful to the people who have urged and encouraged them step by step. After practicing, some people said that at first, they were not interested in the Dhamma. They practiced after someone urged them to do so. If not, they would have failed to experience this Dhamma. Some people say that they are extremely grateful. They are grateful to the people who encouraged them. Ehipassiko – the Dhamma that is worthy of urging one to “Come and see.” Because it is extremely good, this dhamma is worthy of inviting one to come and practice and experience for oneself. These are the Dhammas of magga, phala, and nibbāna that the Buddha taught.

The Buddha’s Dhamma is one that is worthy of urging one to come and see, to practice and experience for oneself. It is a Dhamma which, if one practices because of being encouraged to do so, one will be joyful and happy after gaining the benefits. If one keeps in mind that: “I am practicing this Dhamma,” then one’s mind will be encouraged, it will be good for the enlightenment factor of rapture, pīti sambojjhanga to arise.

6. How Does Faith In the Practice Arise?

It is ehipassiko – a Dhamma that is worthy of urging and inviting one to “Come and see, practice and see.” When others practice because of being urged to “Practice and see,” if the results do not arise for some time, then it would not be acceptable. It is acceptable only if the benefits arise in a short time or immediately. One would be grateful to the person who encouraged one. For example, if a person who is sick took a certain medicine because someone else said: “Try this medicine,” and the disease was not cured immediately, then the sick person would not have faith in that medicine or the person who recommended it. If after taking the medicine, one gained relief and the disease was cured in a day or a night, then one would have faith in the medicine. One would be grateful to the person who recommended the medicine and urged one to take it.

This medicine would be worthy of urging one to “Try and see.” Similarly, the Buddha’s Dhamma is also ehipassiko – a Dhamma that is worthy of urging and inviting one to “Come and see, practice and see.” If one really practices according to the invitation and exhortation, one can experience the benefits of freedom from craving and other mental defilements in the present existence. After experiencing the Dhamma in this way, one will be very grateful to the person who urged one to practice.

7. How Should One Practice Vedanānupassanā?

After sitting down and meditating for a long time, unpleasant feelings such as stiffness and pain, etc., can arise. At this time, one must observe the feelings that are obvious. If there is stiffness, one must concentrate one’s attention on the place where it is stiff, and note and observe it with satipaṭṭhāna as “stiff, stiff.” If there is heat, one must note it as “heat, heat.” If there is pain, one must note it as “pain, pain.” In addition, if there is itchiness, etc., one must note it as “itching, itching,” etc., according to its arising.

8. What Saying Is Very Useful When One Is Practicing Vedanānupassanā?

When observing like this, the stiffness, heat, etc., may become more and more intense. Then, the desire to move may arise. However, one should not change postures immediately. After noting this intention as “wanting to change,” one must forbear these unpleasant feelings and observe them. Forbearing in this way is called khantīsamvara. The Myanmar saying that: “If one can forbear, one can realize nibbāna” is very useful in relation to the practice of meditation.

9. How Can Insight Knowledges Arise and Nibbāna Be Attained?

Only by observing with forbearance, after the arising of concentration, can insight knowledges and path and fruition knowledges arise, and can nibbāna be attained. If one cannot forbear, and changes postures frequently, it will be difficult for concentration to arise. If concentration doesn’t arise, then insight knowledges cannot arise. Thus, one cannot attain nibbāna with path and fruition knowledges.

10. When Can the Unpleasant Feelings that Are Difficult to Bear Vanish?

Therefore, by forbearing as much as one can, one must observe the unpleasant feelings. When mindfulness, concentration and knowledge have become strong, these unpleasant feelings that are difficult to bear can vanish as though they have been taken away. There are many people, having been abandoned by doctors saying: “There is no longer any treatment left, there is only death,” who have recovered even from these serious diseases when they practiced meditation. Therefore, one must forbear as much as possible and observe the unpleasant feelings.

11. What Should One Do When Unpleasant Feelings Become Extreme and One Can No Longer Bear Them?

When unpleasant feelings become extreme and one can no longer bear them, one may change postures. When changing postures, after noting the intention to move, one must observe the bodily movements of changing postures thoroughly and without a break. After observing in this way, one must return to observing the rising and falling of the abdomen.

12. When Do Neutral Feelings, Upekkhā Vedanā, Arise?

One must also observe until the mental suffering and anxiety, etc., in one’s mind have disappeared. Then, if obvious pleasant feelings arise from pleasant physical contact in the body, one must also observe them. One must also observe joy and happiness, pleasant feelings in the mind. When neither good nor bad, neutral feelings arise and are obvious, one must also note them. These neutral feelings, upekkhā vedanā rarely arise. They tend to arise only when special knowledge has become mature. One must observe these three kinds of feelings as they arise. The following verse is given: “Good, bad, neutral feelings, one must note them as they arise.”

Here, “Good” means pleasant feelings, sukha vedanā. “Bad” means dukkha vedanā. “Neutral” means upekkhā vedanā. These three types of feelings arise one at a time. Therefore, we say that one must observe and know them as they arise. This is enough to understand how to practice mindfulness of feelings, vedanānupassanā.

13. What are “Dhamma Objects”?

Whatever objects that arise that are not included in bodily actions, mental activity, or feelings are called “dhamma objects.” What are they? They are seeing, hearing, etc.

14. What is Āyatanadhammānupassanā?

When observing the rising and falling, if one sees something, one must note it as “seeing.” If one hears something, one must note it as “hearing.” If one smells something, one must note it as “smelling.” When eating, if one knows the taste, one must note it as “tasting.” If one touches something, one must note it as “touching.” If one plans, one must note it as “planning.” Observing in this way and coming to know is in accordance with the statement “Cakkhuñca pajānāti, rūpe ca pajānāti,” etc., that is explained in the Exegesis on Āyatanadhammānupassanā.

15. What is Nivaranadhammānupassana?

Then, if one wants something, one must note it as “wanting.” If one likes something, one must note it as “liking.” This is the method of observing kāmacchandha in brief. If byābāda, anger and aversion arise, one must note them as “anger,” etc. If thinamiddha, laziness arises, one must note it as “lazy,” etc. If uddhacca, restlessness and kukkucca, remorse arise, one must note them as “restlessness,” and “remorse.” If one doubts the Buddha and Dhamma, one must note it as “doubt.” One may even think that this doubt is reflective knowledge.

Therefore, when observing rising and falling, etc., if one reflects regarding the way of practice, one must note it as “reflecting.” Observing in this way is in accordance with the statement “Santaṁ vā ajjhataṁ kāmacchandaṁ atthi me ajjattaṁ kāmacchandoti pajānāti,” etc., that is explained in the Exegesis on Nivaranadhammānupassana.

16. What Should One Observe When Practicing Satipaṭṭhāna?

When observing the rising and falling, if dhammas such as seeing, hearing, etc., wanting and liking, etc., arise, one must observe these dhammas that arise and know them. The verse is given: “One must know the dhammas that arise conspiciously or obviously.”

Thus, there are no longer any phenomena that are not known. One will know all the phenomena that arise in the body. What was discussed just now completes all the phenomena to be known. This means: observe bodily actions every time they arise. Observe mental activity every time it arises. Observe feelings every time they arise. Observe dhamma objects every time they arise. This is the entire method of developing the four Satipaṭṭhānas. These are all the things that yogis know after noting and observing.

Some people think and criticize that one must only observe two things: the rising and falling of the abdomen. This is not correct. With the rising and falling as a basis, one must observe all phenomena that arise. When one reaches insight knowledge of dissolution bhangañana, we give also the instruction for one to observe spreading the attention to whatever phenomena that arise, bodily and mental activities, feelings, dhamma objects, as they arise, without observing any object as a basis.

I am going to finish the Dhamma Talk here and before we close the Dhamma talk, let us recite again the three valuable aphorisms from Mahasi Sayadaw.

1. Practice Satipaṭṭhāna vipassanā meditation now. If one practices now, one gains the benefits right now.

2. There are many people, having been abandoned by doctors saying: “There is no longer any treatment left, there is only death,” who have recovered even from these serious diseases when they practiced meditation.

3. Whatever objects that arise that are not included in bodily actions, mental activity, or feelings are called “dhamma objects.”

May you be well and happy.

Sādhu! Sādhu! Sādhu!

Bài viết liên quan

  • Thế Nào Là Thực Hành Đúng Đắn Minh Sát Tứ Niệm Xứ?, Web, Face
  • Chuẩn Bị Tâm Thái Trước Khi Hành Thiền, Web, Youtube, Web Link
  • Thế Nào Là Thực Hành Đúng Đắn Minh Sát Tứ Niệm Xứ, Web, Face
  • Cái Gì? What? Như Thế Nào? How? Để Làm Gì? For What? – Ba Câu Hỏi Cốt Lõi Trong Minh Sát Tu Tập – Sumangala Bhikkhu Viên Phúc, Web, Face
  • Căn Bản Thực Hành Tứ Niệm Xứ
  • Minh Sát Vipassana – Thiền Hành & Thiền Tọa, Web
  • Thực Hành Thiền Minh Sát Tứ Niệm Xứ Quan Trọng Như Thế Nào?, Web
  • Mahasi Sayadaw Vipasana Meditation Instructions
  • Hướng Dẫn Thực Hành Thiền Minh Sát Vipassana By Tharmaneykyaw Sayadaw
  • English Version. Youtube
  • Thiền Sư Mahasi – Hướng Dẫn Thực Tập Thiền Minh Sát Phần 1, Web
  • Hộ Trì Cho Mình Hộ Trì Người Khác, Web, Face
  • Tứ Niệm Xứ Tu Tập, Làm Cho Sung Mãn Đem Lại Thành Quả Gì, Web, Face
  • Thấy Biết Cái Gì Thì Được Coi Là Thấy Biết ‘Như Thật’, ‘Như Nó Đang Là’ Khi Thực Hành Tu Tập Minh Sát Tứ Niệm Xứ Vipassnā Satipaṭṭhānā?, Web, Face
  • Tập Trung Vào Đề Mục Chính Để Vun Bồi Phát Triển Định Trong Tu Tập Thực Hành Thiền Minh Sát Vipassnā Tứ Niệm Xứ, Web, Face
  • Quán Thọ Như Thế Nào Để Đạt Tới Ái Tận Giải Thoát, Cứu Cánh Viên Mãn, Chứng Đạt Niết Bàn?, Web, Face
  • Minh Sát Tuệ Đầu Tiên Là Gì?Được Tu Tập Như Thế Nào?Bài 1/2: Hướng Dẫn Tu Tập Vun Bồi Và Phát Triển Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Của Ngài Đại Trưởng Lão Thiền Sư Mahasi, Web, Face
  • Minh Sát Tuệ Đầu Tiên Là Gì?Được Tu Tập Như Thế Nào?Bài 2/2: Phương Pháp Tu Tập Vun Bồi Và Phát Triển Tuệ Phân Biệt Danh Sắc Nāma – Rūpa – Pariccheda – Ñāṇa Theo “Thanh Tịnh Đạo”, Web, Face
  • Thế Nào Là Không Nắm Giữ Tướng Chung, Không Nắm Tướng Riêng?, Web, Face
  • Lợi Ích Phòng Hộ Các Căn Là Gì ?, Web, Face
  • Kāma – Dục (Tham Ái) Và Chanda – Dục (Mong Muốn) Khác Nhau Như Thế Nào?, Web, Face
  • Làm Thế Nào Diệt Trừ Tà Kiến, Web, Face
  • “Tu Tập Và Phát Triển Thái Độ Không Bám Níu, Không Chấp Trước Vào Bất Cứ Cái Gì Trên Đời Này” Là Tu Tập Cái Gì? Như Thế Nào?, Web, Face
  • Chỉ Bằng Chánh Niệm Thì Không Thể Biết Và Thấy Các Pháp Như Thật, Như Nó Đang Là, Vì Chánh Niệm Mới Chỉ Là Điều Kiện Cần, Không Phải Là Điều Kiện Đủ!, Web, Face
  • Yếu Pháp Tu Tập Tuệ Giải Thoát, Web, Face
  • Yếu Pháp Tu Tập Tuệ Giải Thoát – Bài 2/6 – Tứ Niệm Xứ, Web, Face
  • Quán Pháp – Tứ Thánh Đế: Thực Hành Tu Tập Định – Tuệ Hiệp Thế Dẫn Đến Định – Tuệ Siêu Thế Như Thế Nào?, Web
  • Bài 4/6 Phần 1 – Như Lý Tác Ý Là Như Thế Nào?, Web, Face
  • Bài 4/6 Phần 2 – Như Lý Tác Ý: Có Bao Nhiêu Cách Quán Vô Thường – Khổ – Vô Ngã Của Ngũ Uẩn Trong Thực Hành Tu Tập Hàng Ngày?, Web
  • Cetanā – Tác Ý Tư Tâm Sở Và Manasikāra – Tác Ý Chú Tâm Khác Nhau Như Thế Nào?, Web, Face
  • Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức, Web, Face
  • Ngũ Uẩn Là Gì, Web, Face

Audio Bài Giảng

  • (46) Quán Pháp: Ngũ Uẩn – Vị Ngọt, Sự Nguy Hiểm, Sự Xuất Ly. Thiền Sư Viên Phúc, Web Link, Youtube
  • (47) Quán Ngũ Uẩn: Sắc – Thọ – Tưởng – Hành – Thức – Không Phải Của Ta Hãy Từ Bỏ Nó., Web Link, Youtube
  • (48) Như Lý Tác Ý Ngũ Thủ Uẩn Là Rỗng Không Là Trống Không, Web Link, Youtube
  • Hiện Tại Lạc Trú Là Gì? Tịch Tĩnh An Trú Là Gì? Đoạn Diệt (Phiền Não) Là Gì?, Web, Face
  • Pháp Thượng Nhân – Uttarimanussadhammo, Web, Face
  • Sayādaw U Sīlānanda – Myanmar.
  • Anata – Vô Ngã Là Gì, Web, Face
  • Vô Ngã Là Vô Thường & Khổ, Web, Face
  • Vô Ngã: Hiểu Biết Đúng Đắn Và Hiểu Biết Sai Lầm, Web, Face
  • Anata – Vô Ngã Là Gì, Web, Face
  • Who Am I, Ta Là Ai, Web, Face
  • Thấy Chỉ Là Thấy, Web, Face
  • Ai Đang Nói, Ai Đang Nghe, Web, Face
  • Ai Ăn Thức Thực? Ai Cảm Xúc? Ai Cảm Thọ? Ai Khát Ái? Ai Chấp Thủ?, Web, Face
  • Hết Luân Hồi Thì Đi Đâu, Web, Face
  • Điều Này Không Thể Xảy Ra, Web, Face
  • 8 Pháp Vi Diệu Chưa Từng Có Trong Pháp Và Luật Của Đức Thế Tôn Là Gì?, Web, Face
  • Học Từ Từ, Tập Từ Từ, Thực Hành Từ Từ, Web, Face
  • Như Thế Nào Là Lộ Trình Tu Tập Thánh Đạo Giác Ngộ?, Web, Face
  • Trong Pháp Và Luật Này Có Một Tuần Tự Học Tập, Một Tuần Tự Công Trình, Một Tuần Tự Đạo Lộ?, Web, Face
  • Bậc trí theo tuần tự (Pháp Cú 239), Web, Face
  • Bốn Đạo Lộ Tu Tập Chỉ Tịnh Samatha – Minh Sát Vipassanā Dẫn Tới Đạo Quả Alahán, Web
  • Chớ Quên Lợi Ích Của Chính Mình (Pháp Cú 166), Web, Face
  • Học Gì Hết Ngu, Tu Gì Hết Khổ, Web, Face
  • Người Già Cao Tuổi, Đầy Bệnh Hoạn, Luôn Ốm Đau Bằng Cách Nào Có Thể Đạt Tới Hạnh Phúc, An Lạc Lâu Dài?, Web, Face
  • Bạn Chăm Sóc Thân Thể Của Bạn, Tại Sao Không Chăm Sóc Tâm Trí Của Bạn?, Web, Face
  • Ái Dục Trói Buộc Chúng Sinh Vào Khổ Đau Bất Tận Của Luân Hồi Sinh Tử Trong Tam Giới Như Thế Nào?, Web, Face
  • 7 Yếu Tố Cần Thiết Đưa Đến Giác Ngộ Là Gì?, Web, Face
  • Nhân Để Sinh Giác Ngộ Có Mấy Pháp?, Web, Face
  • Pháp Thoại: Thất Giác Chi – 7 Yếu Tố Giác Ngộ, Web
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Nhất: Chánh Niệm., Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Hai: Trạch Pháp, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Ba: Tinh Tấn, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Ba: Tinh Tấn (Phần 2 Tiếp Theo), Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Tư: Hỷ, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Năm: Thư Thái Giác Chi, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Sáu: Ðịnh, Web, Face
  • Yếu Tố Giác Ngộ Thứ Bảy: Xả, Web, Face
  • Sự Chứng Đắc Rốt Ráo Là Gì, Web, Face
  • “Người Hiền Trí” – Bài 1/4: Kẻ Ngu & Người Hiền Trí Khác Nhau Thế Nào?, Web, Face
  • “Người Hiền Trí” – Bài 2/4: Giới (Dhatù – Elements) Là Gì? Xứ (Àyatana – Spheres) Là Gì?, Web, Face
  • “Người Hiền Trí” – Bài 3/4: Duyên Khởi Là Gì? (Paṭic­Ca­Samup­Pāda­ – Depending Arising), Web, Face
  • “Người Hiền Trí” – Bài 4/4: Xứ Phi Xứ (Có Thể & Không Thể) Là Gì? (Ṭhānāṭhā­Na­ – Possible And Impossible), Web, Face
  • Tà Kiến: “Tánh Biết Không Sinh Không Diệt”, Web, Face
  • Làm Thế Nào Diệt Trừ Tà Kiến, Web, Face
  • Người Hiền Trí – Bài 3/4: Duyên Khởi Là Gì? (Paṭic­Ca­Samup­Pāda­ – Depending Arising), Web, Face
  • “Lý Duyên Sinh” Theo “Thanh Tịnh Đạo” P4: Vô Minh Duyên Hành, Web, Face
  • Lý Duyên Sinh – Bánh Xe Sinh Tử, Web, Face
  • Playlist Loạt Bài Giảng: “Lý Duyên Sinh” Theo “Thanh Tịnh Đạo”, Youtube
  • Kinh 7 Trạm Xe, Web, Face
  • Vesak 2020 – Cùng Ôn Lại Con Đường Giác Ngộ Giải Thoát , Web, Face
  • Tất Cả Pháp Lấy Gì Làm Căn Bản?, Web, Face
  • Kāma – Dục (Tham Ái) Và Chanda – Dục (Mong Muốn) Khác Nhau Như Thế Nào?, Web, Face
  • Cetanā – Tác Ý Tư Tâm Sở Và Manasikāra – Tác Ý Chú Tâm Khác Nhau Như Thế Nào?, Web, Face
  • Chớ Có Tu Lộn Ngược, Web, Face
  • Lộn Ngược Là Thế Nào, Web, Face
  • Thế Nào Là Tưởng Điên Đảo? Tâm Điên Đảo? Kiến Điên Đảo?, Web, Face
  • Thế Nào Là Hão Huyền? Thế Nào Là Vọng Tưởng?, Web, Face
  • Thuận Theo Tự Nhiên Nào, Web, Face
  • Hàng Ngày Không Quên: Sám Hối – Rải Tâm Từ – Phát Nguyện – Hồi Hướng Công Đức, Web, Face
  • Vị Thầy Chân Chính: Một Trợ Duyên Tối Quan Trọng Không Thể Thiếu, Web, Face
  • Tìm Gặp Thiện Tri Thức, Web, Face
  • Tôn Giả Nhất Cú Và Tôn Giả Cùla-Panthaka, Web, Face
  • Danh Mục Các Bài Viết Quan Trọng, Web, FB
  • Tôi Nguyện, Web, FB
  • Tại Sao Myanmar, Web, FB
  • Mục Đích Sử Dụng Facebook Là Gì?, Web, FB
  • Sàng Lọc Thông Tin Như Thế Nào?, Web, FB
  • Thế Nào Là Tu Đúng Đạo Phật, Web, FB
  • Điều Kiện Tham Dự Các Khóa Thiền Minh Sát Vipassana (Tứ Niệm Xứ) Theo Phương Pháp Ngài Trưởng Lão Thiền Sư Mahasi Sayadaw Tại Thiền Viện Ta-Ma-Nê-Chô, Yangon, Miến Điện, Web, FB
  • Cái Gì? What? Như Thế Nào? How? Để Làm Gì? For What? – Ba Câu Hỏi Cốt Lõi Trong Minh Sát Tu Tập – Sumangala Bhikkhu Viên Phúc, Web, FB
  • Lưu Lại Để Dễ Tìm Các Danh Mục Bài Viết Theo Chủ Đề – Photo Albums Trên Fb Sumangala Bhikkhu Viên Phúc (P1/3), Web, FB
  • Lưu Lại Để Dễ Tìm Kiếm Các Bài Viết Quan Trọng: (P2/3) Facebook Links List A Tam Bảo, Nghiệp…, Web, FB
  • Lưu Lại Để Dễ Tìm Kiếm Các Bài Viết Quan Trọng: (P3/3) Facebook Links List B Tu Tập Định, Tuệ, Tứ Thánh Đế…, Web, FB

Audio – Video Bài Giảng – Tỳ Khưu Viên Phúc Sumangala – Thiền Viện Tharmanakyaw Mahagandhayon Monastery, Yangon, Myanmar.

  • Youtube, Youtube
  • Archive, Archive
  • Yếu Pháp Tu Tập Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Youtube
  • Thiền Minh Sát Vipassana Lý Thuyết Và Thực Hành, Youtube
  • Ehipassiko – Đến Để Thấy: Phóng Sự Về Khóa Tu Thiền Minh Sát Vipassana Tại Chùa Nam Tông SG, Youtube
  • Xin Hãy Đừng Phí Phạm Dù Chỉ Mỗi Một Giây – Thiền Sư Sumangala Bhikkhu Viên Phúc, Youtube
  • Giới Và Luật Trong Phật Giáo Nguyên Thủy Theravada, Youtube
  • Thọ Trì Tam Quy và Ngũ Giới, Web, FB
  • 9 Ân Đức Phật, 6 Ân Đức Pháp, 9 Ân Đức Tăng, Web, FB
  • Sám Hối – Tha Thứ – Rải Tâm Từ – Phát Nguyện – Hồi Hướng Công Đức, Web, FB

Bài viết trên facebook ngày 28, tháng 6, năm 2021